Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Cảm Nhận Khổ 3 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng (Dàn Ý + 5 Mẫu) Cảm Nhận Tây Tiến Khổ 3 # Top 13 Xem Nhiều | Mfua.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Cảm Nhận Khổ 3 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng (Dàn Ý + 5 Mẫu) Cảm Nhận Tây Tiến Khổ 3 # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Cảm Nhận Khổ 3 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng (Dàn Ý + 5 Mẫu) Cảm Nhận Tây Tiến Khổ 3 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Mfua.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến: Quang Dũng là một nhà thơ đa tài. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Tây Tiến.

Dẫn dắt giới thiệu đến nội dung cần phân tích: Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc đã thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy dũng cảm nhưng cũng thật thơ mộng.

II. Thân bài

1. Khái quát chung về khổ thơ

– Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này.

– Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.

– Vị trí đoạn thơ: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Đoạn thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến với sự hy sinh bi tráng của họ.

2. Cảm nhận về khổ 3

– Khổ ba đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.

– Họ đã sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.

– Những người lính hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.

– Đặc biệt nhất là tinh thần bi tráng thấy được qua sự hy sinh của người lính:

Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.

Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.

Họ coi cái chết tựa lông hồng. sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.

Hàng loạt từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

III. Kết bài

Khái quát lại về hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến, cảm nhận chung của người viết về khổ thơ thứ ba.

Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc… Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…

Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

Lúc bấy giờ, ngoài Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, đại đội trưởng – nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Nội (các trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang…). Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, là một chàng trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc…), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..

Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.

Rồi “Đồng chí” của Chính Hữu, “Cá nước của Tố Hữu, đều miêu tả người lính “chân quê”:

(Đồng chí, Chính Hữu)

Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.

Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:

Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm” là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá – đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.

Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:

Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.

Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:

“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:

Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ” gợi cảm giác buồn thầm lặng – sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.

Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.

Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:

Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán – Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.

Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.

“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Đến với khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực:

Đầu tiên, chân dung của người lính Tây Tiến được khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” – một hình ảnh rất thật. Bởi trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ở nơi chiến trường đầy những bom đạn, hóa chất của kẻ thù đã khiến cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Kỳ lạ là cách nói “không mọc tóc” đã thể hiện được tâm thế chủ động của người lính. Họ đã lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Một hình ảnh rất độc đáo nữa đó là “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”. Màu xanh ở đây có thể hiểu là của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Nhưng cũng có thể đó là khuôn mặt xanh xao của người lính trước những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Dù trong chiến tranh, khó khăn là vật nhưng vẫn không làm mất đi tinh thần lạc quan của người lính.

Tiếp đến, Quang Dũng đã cho thấy một tầm hồn mơ mộng của người lính Tây Tiến. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi – vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gửi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Khi đọc câu thơ này của Quang Dũng, nhiều nhà nghiên cứu văn học đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhận xét như vậy có phần còn phiến diện, một chiều.

Bất kì một trận chiến nào cũng đều có mất mát, hy sinh. Nhưng sự hy sinh của họ lại được Quang Dũng khắc họa thật hào hùng. Từ láy “rải rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Câu thơ giúp người đọc hình dung được đó không chỉ là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Với lời khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, chúng ta đã thấy được tinh thần của một thế hệ trẻ Việt Nam bấy giờ. Dù tuổi đời còn trẻ, nhưng vẫn quyết ra đi để bảo vệ tổ quốc – “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Tiếp đến là hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất” là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến đã khiến cho thiên nhiên vạn vật cũng phải khóc thương

Như vậy, Quang Dũng đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh người lính Tây Tiến với những nét đẹp tiêu biểu. Khổ thơ thứ ba đã đem đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc.

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài với nhiều tác phẩm nổi bật. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, đặc biệt là khi đọc khổ thơ thứ ba:

Đoàn quân Tây Tiến trước hết hiện lên qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Cụm từ “không mọc tóc” cho thấy sự chủ động của người lính. Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Họ chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống nơi chiến trường. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh đoàn binh không mọc tóc còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù được hiểu theo cách nào, chúng ta vẫn thấy được sự khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã trải qua.

Nhưng không chỉ dũng cảm, Quang Dũng còn cho thấy họ là những lính lãng mạn, hào hoa. Xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, người lính Tây Tiến xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Với hình ảnh này, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.

Nhà thơ tiếp tục khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến qua sự hy sinh. Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và các từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Ở đây không còn chỉ là một cái chết, mà là rất nhiều cái chết. Chiến trường là nấm mồ chung của biết bao con người. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được. Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng họ nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Đặc biệt nhất là câu thơ cuối cùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã – con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt. Quả là khi đọc đến những câu thơ này, mỗi người đều sẽ cảm thấy thật xúc động.

Khổ thơ thứ ba đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng chân thực. Người đọc qua đây hiểu thêm về sự khốc liệt nơi chiến trường, cũng như tinh thần lạc quan của người lính.

Đến với Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng mà thơ mộng. Đặc biệt hình ảnh người lính hiện lên qua khổ thơ thứ ba đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài thơ được sáng tác khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này. Nhà thơ đã khắc họa người lính với hiện thực đầy khốc liệt:

Người lính sống nơi chiến trường khốc liệt – thiếu thốn mọi điều. Nhưng họ vẫn chủ động đối mặt với những khó khăn đó. “Không mọc tóc” cho thấy một sự kiên quyết – người lính chủ động cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt. Nhưng hình ảnh này còn có thể được hiểu khi gắn với thực tế cuộc sống của người lính tại rừng Trường Sơn lúc bấy giờ. Hóa chất của kẻ thù đã khiến tóc của họ bị rụng dần. Thế mới thấy, Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Tiếp đến là hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùng” – có thể hiểu đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang giúp người lính hành quân trong rừng. Nhưng nếu hiểu đó là màu xanh xao trên khuôn mặt của người lính bởi cơn sốt rét rừng thì mới thấy được sự khó khăn của họ. Không chỉ riêng Quang Dũng, mà Tố Hữu cũng đã từng khắc họa hình ảnh đó:

Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về

Nhưng khác là ở đây, người lính Tây Tiến nhớ đang nhớ về quê hương của mình.

Nhà thơ Quang Dũng cũng không né tránh sự hy sinh của người lính:

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Nếu ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, thì người lính Tây Tiến lại l “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.

Có thể khẳng định rằng, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, giúp bạn đọc hiểu hơn về cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc, cũng như tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam.

“Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong số những bài thơ hay viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến với khổ thơ thứ ba của bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh chân dung người lính vô cùng chân thực:

Ở bốn câu thơ đầu, hình ảnh người lính được nhà thơ xây dựng với nét đẹp vừa hiên ngang mà cũng vừa thơ mộng. Chân dung của họ được nhà thơ Quang Dũng khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lạ là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Thế mới thấy tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu của họ cao đến nhường nào.

Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy mà các anh mất đi tinh thần lạc quan. Các anh đã lựa chọn chủ động đối mặt với khó khăn, coi đó giống như là sức mạnh để tiếp tục cuộc hành quân của mình. Tuy trong gian khổ mà vẫn hiên ngang, bất khuất.

Nhưng họ không phải chỉ là những con người khô khan mà cũng rất đỗi mơ mộng. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi – vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến. Quả là cái nhìn phiến diện một thời.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả sự hy sinh anh dũng của những người lính. Biện pháp tu từ đảo ngữ “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với từ láy “rải rác” kết hợp các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” khiến cho giọng thơ trở nên trang trọng hơn. Phải hiểu rằng đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Những người lính hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ đã lên đường chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập của dân tộc. Cho dù có phải đối mặt với cái chết, các anh vẫn nguyện dâng hiến hết tuổi thanh xuân cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một lời thề nguyện: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” – đêm hết tuổi xuân thậm chí là tính mạng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi khi họ ra đi “áo bào thay chiếu anh về đất” – hình ảnh “áo bào” có thể được hiểu là tấm áo khoác bên ngoài của những người lính. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Hình ảnh “áo báo” đã bất tử hóa cái chết của người lính. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.

Quả là Quang Dũng đã xây dựng được một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa chân thực vừa lãng mạn.

Văn Mẫu Lớp 12: Cảm Nhận Khổ 3, 4, 5 Bài Thơ Sóng (Dàn Ý + 4 Mẫu) Sóng Của Xuân Quỳnh

1. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ với hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính.

Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.

– Khái quát nội dung khổ 3 và 4, 5: hình tượng sóng đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

2. Thân bài:

* Khái quát về hình tượng “sóng”

– Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng sóng.

Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.

“Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.

– Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).

* Đoạn thơ là một khám phá về sóng, mỗi khổ thơ sóng lại hiện ra một ý nghĩa khác

“Ôi con sóng… ngực trẻ”

– Đến khổ ba của bài thơ, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, người phụ nữ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình.

“Sóng bắt đầu… ta yêu nhau”

Khổ 5: Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu ở đây luôn soi vào sóng để diễn tả cái sâu sắc, bao la của nỗi nhớ trong lòng mình, nó choán đầy cả tầng sâu và bề rộng, nó chiếm lĩnh trọn cả thời gian, cả ngày lẫn đêm:

Con sóng dưới lòng sâu

3. Kết bài:

– Khái quát lại nội dung 3 khổ thơ.

– Cảm nhận của em: Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.

Tình yêu vốn là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn đối với mỗi nhà thơ, nhà văn. Với một trái tim nhạy cảm và khát khao yêu thương, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để viết nên một trong những thi phẩm hay và đặc sắc nhất trong sự nghiệp viết thơ của bà: “Sóng”. Đứng trước muôn trùng biển lớn, nữ sĩ đã bộc lộ niềm trăn trở, băn khoăn về cội nguồn của tình yêu đôi lứa. Đồng thời nói về nỗi nhớ, lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu:

Với khổ thơ này nhà thơ đã khẳng định một chân lý, nếu sóng tồn tại bất diệt với đại dương thì tình yêu tồn tại bất diệt với con người:

Sóng vốn là hình ảnh thiên nhiên, và khi nào vũ trụ này vẫn còn tồn tại có nghĩa là sóng vẫn sẽ tồn tại. Nếu con sóng tồn tại bất diệt với thời gian dù là “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế” – không thay đổi. Thì tình yêu cũng vậy, nó luôn tồn tại vĩnh cửu vượt qua mọi thời gian, không gian. Nhưng đặc biệt nhất là ở “ngực trẻ”. Bởi có lứa tuổi nào mà tràn đầy rạo rực yêu đương như ở tuổi trẻ? Chính tình yêu mang đến cho tuổi trẻ những nhịp đập rung động khác thường, sự tươi sáng vui tươi, lặng lẽ viết lên những trang nhật ký thanh xuân đầy đẹp đẽ.

Những câu thơ thốt ra khi sóng đã hoàn thành nhiệm vụ vươn ra biển lớn. “Giữa muôn trùng sóng bể” – con sóng ấy đã phá vỡ được giới hạn của mình để đi tới đích tìm kiếm tình yêu chân chính. Đứng trước một nơi mênh mông như biển cả, “em” có cơ hội được nhìn nhận về anh, về chính mình và về tình yêu:

Đáng lẽ, cuộc hành trình vươn ra biển lớn phải là của sóng nhưng ở đây, tác giả đã đồng nhất hình tượng sóng và em, để ngầm nói rằng thật ra đây cũng chính là hành trình em đi tìm cội nguồn của tình yêu lứa đôi thuần khiết. Điệp ngữ “Em nghĩ về” kết hợp với điệp cấu trúc câu thể hiện niềm khát khao tìm kiếm thật sự, ước ao cháy bỏng được lí giải cặn kẽ nơi khởi sinh của tình yêu. “Từ nơi nào sóng lên?” – câu hỏi như nói hộ nỗi tâm tư của bao chàng trai cô gái xưa nay. Ai cũng mong muốn có được câu trả lời: tình yêu ở đâu mà có, tình yêu từ đâu mà sinh ra? Nhưng tuyệt nhiên chưa ai có thể lí giải được. Cho nên không khó hiểu nếu như người con gái ấy còn trăn trở, băn khoăn nhiều đến như thế này:

Càng yêu nhiều bao nhiêu người ta lại càng khao khát muốn thấu hiểu bấy nhiêu. Vì yêu mà con sóng ấy đã phải đi muôn trùng vạn dặm để tìm ra cội nguồn, cũng như vì yêu anh mà em đã trăn trở, băn khoăn nhiều lắm để tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu chân chính. Thế nhưng tình cảm vốn dĩ đã là một thế giới đầy bí ẩn, không ai có thể lí giải nổi và chính nữ sĩ cũng đã phải lắc đầu “Em cũng không biết nữa”. Sóng hay gió bắt nguồn từ nơi nào chẳng ai biết, cũng như tình yêu sinh ra vốn dĩ không có điểm đầu và điểm cuối, không có giới hạn và không dễ gì tìm kiếm câu trả lời. Vì vậy mà người con gái ấy dù khát khao, dù mãnh liệt thế nào cũng phải lắc đầu vì không thể lí giải nổi. Tình yêu được đặt cạnh biển cả, phải chăng nữ sĩ đã ngầm khẳng định tình cảm ấy bao la như biển cả và dạt dào như những con sóng cuộc xô? Trân trọng tình cảm đó cho nên người con gái cũng hoàn toàn bất lực trong nỗ lực tìm kiếm nơi khởi sinh của tình cảm.

Con sóng dù ở bất cứ nơi nào, dù ở ngoài khơi xa hay ở trên mặt nước thì vẫn luôn mang tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải bến bờ của nó, hướng về bờ ngày ngày đêm đêm cho đến khi gặp được bến bờ. Người con gái cũng vậy, họ luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương dù ở bất cứ nơi nào, bất kể ngày hay đêm. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.

Tình yêu cũng rộng dài và bí ẩn như chính thế giới tự nhiên vậy, ta yêu lúc nào mà ta cũng chẳng hay biết, chỉ biết rằng có một thứ tình cảm giản dị mà tự nhiên đến, khiến lòng ta chợt chơi vơi:

(Xuân Diệu)

Tình yêu vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca nhưng Xuân Quỳnh đã dùng ngòi bút của mình để viết nên một bài thơ đầy tính nữ. Hành trình tìm kiếm tình yêu của người con gái tuy gian nan là thế nhưng cho thấy khát khao yêu thương, khát khao thấu hiểu mãnh liệt để tìm được cho mình một tình yêu chân chính. Có lẽ hiếm có tình cảm nào khiến con người bỗng trở nên táo bạo như vậy, cũng bởi vì yêu mà trở nên mạnh mẽ. Xuân Quỳnh – một trái tim luôn đong đầy những yêu thương đã thổi hồn vào những trang thơ như thế, để rồi bài thơ cứ lắng mãi vào lòng người đọc với xúc cảm thật ngọt ngào.

Ra đời trong hoàn cảnh khói bom những năm 1967, “Sóng” đã vượt thoát ra khỏi dòng thơ cách mạng vốn rất phổ biến lúc bấy giờ để mang đến cho người đọc cảm xúc thơ mới mẻ. Nó xứng đáng trở thành một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỉ XX.

Thơ Xuân Quỳnh dẫu có lắng nghe bao lần, ta vẫn nhận ra trong đó những thoáng mong manh lo sợ cùng nét đẹp của một hồn thơ nhạy cảm, giàu trực cảm. Và đó, chính là nét nữ tính rất riêng làm nên bản sắc của Xuân Quỳnh, mà trong Sóng, tác giả đã hóa thân trọn vẹn nhất điệu hồn ấy vào hai khổ thơ 3, 4 và 5.

Đứng trước biển khơi rộng lớn bao la, tâm hồn nhạy cảm tinh tế của một trái tim yêu bỗng dưng trào lên những xúc cảm mãnh liệt về người mình thương nhớ. Đồng thời, trạng thái ấy cũng phần nào khẳng định trái tim yêu tha thiết mãnh liệt của Xuân Quỳnh, ở bất cứ không gian và thời gian nào, nỗi nhớ luôn hiện hình luôn trực trào lên. Từ câu hỏi về cội nguồn của cơn sóng – biểu tượng của sự sống, sự vĩnh cửu, bất tận, nhà thơ cất lên nỗi băn khoăn về nguồn gốc của tình yêu. Đi từ thiên nhiên rộng lớn đầy những bí ẩn để gắn kết nó với nỗi niềm khắc khoải trong lòng người, quả nhiên, cách diễn đạt của Xuân Quỳnh đã làm mềm đi rất nhiều tính chất nghi vấn trong lời gõ cửa của trái tim.

Đặc biệt, nếu để ý dấu phẩy ngăn cách ở câu thơ thứ hai chính là một cách làm “điệu thơ” rất có duyên của Xuân Quỳnh. Nó khiến câu thơ vốn đơn thuần mang tính chất tự sự, bỗng dưng được thổi hồn để mang chút ngập ngừng, âu lo vốn là nét đặc trưng của hồn thơ Xuân Quỳnh – một hồn thơ nhạy cảm, giàu trực cảm. Câu thơ đã đặt cả người được nhớ và người đang nhớ vào trong một mạch chảy, khiến cho cảm xúc thơ càng rạo rực, càng cho thấy tấm lòng của nhân vật trữ tình trong tình yêu.

Cắt nghĩa, lý giải về nguồn gốc của tình yêu đã từng có chàng thi sĩ Xuân Diệu với cặp mắt xanh non rờn biếc khẳng định: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu? Nhưng, nếu ngay khi vừa phủ định Xuân Diệu lại dí dỏm đưa ra câu trả lời của mình:

Thì với Xuân Quỳnh chị không ham lí giải, phân tích dù trong lòng có bao bức xúc đòi tìm ra tận bể, để được thấu hiểu, để được đồng điệu. Điều mà nhà thơ muốn bộc bạch ở đây là sự thể hiện tự nhiên tựa như một lời giãi bày về mặt tình cảm hơn là thể hiện sự phân tích lý tính rạch ròi. Thậm chí, đó còn là lời thú nhận rất duyên dáng và đậm chất nữ tính của nhà thơ về sự bất lực khi không thể, cắt nghĩa, lý giải được bản chất của tình yêu nhiệm màu: em cũng không biết nữa. Cái lắc đầu rất nữ tính ấy hóa ra là ẩn dấu sau nó còn là sự thấu hiểu sâu sắc và nhận thức được rõ ràng tình yêu, tự nó là một cuốn từ điển riêng, là một chân trời mới lạ mà ở đó người ta chỉ có thể cảm nhận, không thể cắt nghĩa. Tình yêu là một địa hạt chứa đựng những triết lí của riêng nó, nó là câu chuyện của trái tim và đòi hỏi sự cảm nhận, lắng nghe, nó nằm ngoài sự xét đoán của lý trí. Tựa như trái tim yêu của Xuân Quỳnh đã dành tất cả sự chân thành tha thiết để mong thấu hiểu được những nội hàm huyền bí ở trong nó, nhưng nếu như tình cảm và cảm xúc có thể cân đo đong đếm và cắt nghĩa, người ta đã chẳng còn hứng thú bởi những điều mới mẻ, kì diệu mà tình yêu mang lại.

Chính Ta-go trong bài thơ tình số 28 cũng đã bày tỏ:

Nhưng, nếu thơ Ta-go là tiếng nói hướng nội truy tìm bản thể để hướng tới những suy tưởng triết lý sâu sắc thì thơ Xuân Quỳnh hướng ngoại để hướng nội, nên ở đây tính chất triết lý suy tưởng được giấu bên ngoài vẻ hồn nhiên trực cảm, do đó dễ khơi gợi sự đồng điệu cảm xúc bên ngoài và đánh thức những suy tưởng bên trong độc giả.

Hình ảnh sóng hiện lên gắn liền với những sắc thái của tình yêu mà khổ đầu là sóng cùng nỗi nhớ. Phép nhân hóa đã biến sóng thành một chủ thể cũng có tình yêu:

Từ “sóng” được điệp lại ba lần trong ba câu thơ liên tiếp đã tạo nên hình ảnh những con sóng trào lên từng lớp, từng lớp. Nhịp sóng trào cũng chính là nhịp nhớ thương trong trái tim người phụ nữ, cứ hết lớp này đến lớp nọ, chẳng bao giờ hết sục sôi, chẳng biết đâu là giới hạn. Giống như trong tình yêu, nhớ luôn là xúc cảm khôn nguôi và dào dạt, một nhịp yêu là một nhịp nhớ. Sự tương phản giữa “ngày” và “đêm”, “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” gợi ra một nỗi nhớ chiếm kích mọi chiều không gian và bao trùm lên toàn thời gian. Những câu thơ gợi ra trái tim người con gái đang yêu tựa như một đại dương rộng lớn đong đầy dòng nước tình yêu và không lúc nào yên lặng bởi những con sóng của nhớ nhung.

Nhà thơ mượn sóng để gợi nỗi nhớ trong tình yêu, nhưng có lẽ nói như thế cũng không thể hết được nên nỗi nhớ đã bật ra thành lời thổ lộ trực tiếp:

Hai câu thơ giống như một con sóng, xuyên qua cả đại dương bao la, xuyên qua cả cõi thực và cõi mộng. Nỗi nhớ không chỉ là hiện diện của ý thức mà còn lắng sâu vào tâm thức để hiện ra trong những giấc mơ. Cái dạt dào, sôi trào, da diết của nỗi nhớ dường như đã khiến cho nỗi nhớ thương tràn bờ. Dung lượng câu thơ chuyển từ bốn thành sáu câu như để đủ dung lượng để diễn tả nỗi nhớ ấy cho đến tận cùng. Sự phá vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng không bao giờ thôi sục sôi.

Sóng là bài thơ tình tuyệt bút của Xuân Quỳnh (1942-1988). Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường gồm có 38 câu thơ. Qua hình tượng sóng Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể ”. Sóng là sức sống hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: “Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế”. Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, là “khát vọng’’ của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc “dữ dội và dịu êm”, lúc thì “ồn ào và lặng lẽ”, làm cho trái tim tuổi trẻ lay động, xao xuyến, “bồi hồi”:

Advertisement

Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông,lớp lớp sóng liên hồi, vô tận, thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống,về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”.Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “ em ” “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về… Em nghĩ về…”, kết hợp với câu hỏi tu từ. “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm, cảm xúc bâng khuâng triền miền dào dạt dâng lên. Hình tượng “sóng” và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:

Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?” Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau”. Đó là tâm trạng của “em’’, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tình đầu mới có câu hỏi ấy. Tình yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” và “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy không trả lời được câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?”, nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:

(Thế Lữ)

Sức gợi cảm của hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, tầng tầng lớp lớp “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: “Sóng nhớ bờ”, trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” càng trở nên thơ mộng, gợi cảm:

Cấu trúc song hành, đối xứng: “dưới lòng sâu

(Thuyền và biển)

Từ hiện tượng “sóng nhớ bờ”, nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ “em nhớ đến anh”, một nỗi nhớ da diết, triền miên, bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức:

Sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với nỗi niềm “lòng em nhớ anh…” thật bất ngờ, thú vị. Ca dao nói nhiều về nỗi nhớ của trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này? – Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Qua đó, ta mới cảm thấy nỗi nhớ của “em”,nhân vật trữ tình trong bài thơ Sóng: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.

Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển”, trong đó hình tượng sóng là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:

Bài thơ “Biển” là một thử thách lớn đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, bài Sóng ra đời, ẩn dụ “sóng” nói về thiếu nữ trong mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là sáng tạo, có thế nói là “bất ngờ”.

Người thiếu nữ trong bài thơ Sóng đã “tự hát” về nỗi khao khát được yêu thương, được sống thủy chung trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng “sóng” gợi lên bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Sóng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì tình yêu là “khát vọng”.

Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình” thì Xuân Quỳnh lại được biết đến là nữ hoàng của tình yêu. Viết về đề tài tình yêu, Xuân Quỳnh đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều thi phẩm xuất sắc. Nổi bật trong số đó không thể không nhắc tới bài thơ “Sóng”. Trong tác phẩm, Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu được yêu thương, được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung. Vẻ đẹp này thể hiện đặc biệt rõ nét qua các khổ thơ số 3, 4 và 5:

Người phụ nữ khát khao yêu thương và trân trọng tình yêu nên luôn muốn khám phá những bí mật của tình yêu:

Những trăn trở, nghĩ suy trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi ra qua hàng loạt câu thơ bắt đầu với cấu trúc “em nghĩ” đầy suy tư. Bà trăn trở được giải đáp những âu lo về tình yêu. “Em” đến đây đã không còn ẩn mình trong sóng nữa mà hiện lên giữa mênh mông đất trời. Đối diện với không gian bao la, vô tận, nhà thơ bỗng nhớ đến cái mênh mang, vô hạn của tình yêu. Nhưng tình yêu đâu chỉ mênh mang, vô tận, trong lòng đại dương của nó còn chứa đựng bao bão tố, phong ba, bao bí ẩn khiến lòng người trăn trở, băn khoăn, khát khao kiếm tìm đáp án. Có lẽ chỉ khi yêu con người ta mới khát khao được khám phá, được thấu hiểu tận cùng cội nguồn của tình yêu:

Đáp án của câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?” thật đơn giản, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng đáp án của câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” lại khiến người ta ngập ngừng, không chắc chắn “không biết nữa”. Những câu hỏi tu từ khi ẩn dưới chân sóng, khi lại trào dâng lên đầu ngọn sóng diễn tả tâm trạng nhà thơ. Nương theo con sóng đại dương, bà bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất của nó.

Cuối cùng đáp án nhận được là: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nó vừa giống như câu trả lời đầy nũng nịu, lại như lời thú nhận về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu.

Con sóng dù ở bất cứ nơi nào, dù ở ngoài khơi xa hay ở trên mặt nước thì vẫn luôn mang tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải bến bờ của nó, hướng về bờ ngày ngày đêm đêm cho đến khi gặp được bến bờ. Người con gái cũng vậy, họ luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương dù ở bất cứ nơi nào, bất kể ngày hay đêm. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.

Tình yêu vốn là tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó trừu tượng, huyền diệu chỉ có thể cảm nhận chứ không thể giải thích rõ nguồn cội, cũng chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng. Giống như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng nói:

Có thể nói, chỉ 3 khổ thơ ngắn gọn nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng những biện pháp nghệ thuật cùng hình ảnh gợi cảm đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng tạo âm hưởng dào dạt. Nhịp thơ khi nhẹ nhàng, khi da diết. Để rồi qua việc tạo dựng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng tình yêu thủy chung, tốt đẹp. Đồng thời khắc họa vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, nét truyền thống pha lẫn vẻ hiện đại của trái tim người phụ nữ với tình yêu chân thành, tha thiết.

Với những giá trị đó, 3 khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của “Sóng” và khẳng định hồn thơ Xuân Quỳnh. Đọc thơ bà, chúng ta dường như cũng cảm nhận được rung động tình yêu và lắng nghe được tiếng lòng mình. Vì vậy, vượt qua sự bào mòn của thời gian, thơ Xuân Quỳnh vẫn có một sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả.

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Ba Khổ Cuối Bài Thơ Sóng (3 Dàn Ý + 9 Mẫu) Phân Tích Sóng Khổ 7, 8, 9

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). XQ là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh. Đặc biệt ba khổ thơ cuối của bài thơ là 3 khổ thơ hay nhất nói về những trăn trở của XQ về tình yêu và kats vọng hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhẫn loại để bất tử hóa tình yêu.

II.Thân bài:

a. Về nội dung

– Khổ 7: Suy tư về không gian: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến nhau thì nhất định sẽ gặp nhau (chú ý hình ảnh sóng và bờ được nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận… dùng để diễn tả tình yêu).

– Khổ 8: Suy tư về thời gian: Cụm từ ” tuy dài thế”,” vẫn đi qua”,” dẫu rộng ” như chứa đựng ở đó ít nhiều nỗi lo âu và sự ngậm ngùi của tác giả. Cuộc đời dài nhưng tuổi trẻ của con người là hữu hạn nên không ngăn nổi năm tháng vẫn đi qua. Giống như biển kia dẫu rộng cũng không ngăn nổi 1 đám mây bay về phía cuối chân trời. Nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian nên XQ tiếc cho sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của hạnh phúc.

– Yêu tha thiết, mãnh liệt trong tình yêu nhưng ta vẫn bắt gặp những dự cảm lo âu đầy bất trắc của thi sĩ. Dự cảm ấy phù hợp với nguồn cảm hứng thường xuất hiện trong thơ bà.

– Khổ 9: Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.

Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.

Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm

b. Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

+ Khổ 7: Sóng từ đại dương xa tìm vào với bờ.

+ Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

+ Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

– Đánh giá: XQ đã xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ về tình yêu. Sóng gửi gắm trong đó những suy tư ít nhiều thấp thoáng sự phấp phỏng, lo âu về sự ngắn ngủi của đời người, sự mong manh của hạnh phúc. Cũng bởi thế, bà mông hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhân loại để tình yêu ấy mãi mãi được bất tử. Đó cũng là sự hiện đại trong quan niệm tình yêu của bài thơ ” Sóng “

III. Kết bài:

Khẳng định giá trị của 3 khổ thơ trong toàn bộ bài thơ

Khẳng định tài năng của tác giả.

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). Năm 1963, tập thơ Chồi biếc của chị ra đời bộc lộ một hồn thơ phong phú, tươi mới, sôi nổi.

Chị liên tiếp cho ra những tập thơ được nhiều người mến mộ, đặc biệt là giới trẻ, như Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may.

Xuân Quỳnh cùng với chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ mất đột ngột trong một tai nạn giao thông bi thảm năm 1988.

Bài Sóng in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968). Đoạn trích này là ở ba khổ thơ cuối cùng của bài thơ.

2. Phân tích:

a) Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

+ Khổ 7: Sóng từ đại dương xa tìm vào với bờ.

+ Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

+ Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

b) Khổ 7: Suy tư về không gian: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến nhau thì nhất định sẽ gặp nhau (chú ý hình ảnh sóng và bờ được nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận… dùng để diễn tả tình yêu).

c) Khổ 8: Suy tư về thời gian: cuộc đời có dài (có lẽ là đời người nói chung), thời gian có khắc nghiệt nhưng rồi vẫn đi qua – đâu vẫn vào đấy.

d) Khổ 9: Còn tình yêu.

Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.

Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.

Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm (cả trong mơ còn thức).

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm

II. Thân bài

1. Khái quát

2. Phân tích

2.1. Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”:

– Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin:

Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc.

– Hai câu thơ sau là sự khẳng định:

+ Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.

+ Nếu để ý kỹ ta sẽ thấy, khổ thơ có cấu trúc đảo độc đáo. Chúng ta có thể thay đổi trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:

Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

“Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.

2.2. Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”.

Quả thật như thế , mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.

Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):

“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ:

Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống.

Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh.

[…] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.

Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

2.3. Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ.

Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:

– Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?

+ Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.

+ “Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.

+ Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).

Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

3. Nghệ thuật

– Thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu.

– Sử dụng các phép tu từ: nhân hóa, ẩn dụ…

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế

– Giọng thơ mềm mại, nữ tính

III. Kết bài

Nêu cảm nhận của em về đoạn thơ trên

Nhà thơ Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ nổi tiếng với những bài thơ viết về tình yêu hay và sâu sắc. Bằng tiếng nói của một trái tim chân thành và khao khát yêu thương, tác giả đã viết nên những vần thơ có sức rung cảm mãnh liệt trong lòng người đọc. Bài thơ “Sóng” là một bài thơ tiêu biểu của bà, đặc biệt ba khổ cuối bài nói về những khó khăn, trắc trở của tình yêu, qua đó làm nổi bật lên niềm tin về một tình yêu vĩnh cửu, bất diệt trong cuộc đời.

Giữa đại dương bao la có trăm ngàn con sóng vỗ, sóng vẫn dạt dào vỗ về dẫu có phải trải qua muôn trùng cách trở. Trong một đại dương rộng lớn, sóng hướng về phía bờ như một quy luật tất yếu. Hình ảnh sóng ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho em- người con gái khi yêu, “đại dương” mênh mông ấy chính là cuộc đời rộng lớn ngoài kia. Tác giả đã dùng sự tương đồng về đặc điểm của những vật thể hữu hình để nói về cái vô hình. Để đến được bến bờ hạnh phúc, để cảm nhận được niềm vui trọn vẹn của tình yêu đôi lứa sẽ phải trải qua muôn vàn những thách thức, khó khăn, đó có thể là sự xa nhau về khoảng cách, thời gian, những những dỗi hờn vội vã, những trách móc vô cớ,…Nhưng nếu biết vượt qua tất cả những “cách trở” ấy, biết giữ niềm tin và sự thuỷ chung để nuôi dưỡng tình yêu thì mọi khó khăn sẽ có thể xoá nhoà. Tình yêu cũng sẽ đơm trái ngọt như con sóng tìm tới vỗ bến bờ.

Niềm tin có thể lớn lao, nhưng khi đối diện với những sóng gió, thử thách sẽ khiến người ta lo âu về sự mong manh của hạnh phúc. Đó là dự cảm âu lo của một trái tim nhạy cảm khi yêu:

Thời gian nào có thể chờ đợi ai bao giờ. Cuộc đời dẫu biết là dài đấy, nhưng nó cũng chỉ tính bằng năm, bằng tháng vẫn là điều hữu hạn. Lời thơ bất giác khiến ta nhớ đến những câu thơ của Xuân Diệu:

Cuộc đời hữu hạn mà thời gian vô tình, chảy trôi. Vì thế, người con gái hết mực chung thuỷ kia lo sợ tháng năm phôi phai, tình yêu nhạt nhòa, không thể níu giữ được. Nỗi khắc khoải về tương lai không trọn vẹn của tình yêu có lẽ cũng là tâm trạng chung của nhiều người khi yêu. Tác giả như đang thay lòng người khác nói lên những suy tư ấy.

Khổ cuối kết thúc bài thơ, tác giả gửi gắm niềm hy vọng về một tình yêu bất diệt, lâu bền theo năm tháng và nỗi khát khao mãnh liệt được chìm đắm, tận hưởng niềm hạnh phúc của biển lớn tình yêu:

Hai tiếng “làm sao” đặt ở đầu câu thơ cho thấy một niềm mong ước cháy bỏng muốn hoà vào biển lớn của nhân vật trữ tình. Những con sóng nhỏ nơi đại dương ngàn năm vẫn vỗ như chính những con sóng lòng nơi em ngàn năm vẫn khát khao hạnh phúc tình yêu, khát khao tận hưởng dư vị tình yêu. Trạng ngữ chỉ mục đích đặt ở cuối bài “Để ngàn năm vẫn vỗ” một lần nữa khẳng định được tình yêu trong “em’ luôn trường tồn, bất diệt, không thể xoá nhà.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ vừa nhẹ nhàng lại vừa mãnh liệt. Trong ba khổ thơ cuối, vần, nhịp, thanh điệu được phối một cách hài hoà tinh tế cùng hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, đoạn thơ mang đến cho người đọc những dư ba khó quên. Đó là khúc ca tình yêu hội tụ vẻ đẹp của của niềm tin, sự thuỷ chung cao thượng của một trái tim luôn sống hết mình vì tình yêu.

Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác khi bà ở biển Diêm Điền vào năm 1967, sau đó bài thơ được tin trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đây là một trong những tác phẩm mà nhiều độc giả nhớ nhất khi nhắc đến thơ Xuân Quỳnh. “Sóng” là một bài thơ hay trọn vẹn, nhưng phân tích 3 khổ cuối bài sóng sẽ thấy rõ giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm.

Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh mang âm hưởng của tiếng sóng của biển khơi và cả tiếng sóng trong lòng của một hồn thơ đang khao khát tình yêu. Hai hình ảnh “sóng” và “em” xuất hiện song hành đã tạo nên cho bài thơ sự đáng yêu, dịu dàng.

Phần đầu của bài thơ “Sóng”, nữ sĩ Xuân Quỳnh thể hiện quan niệm về tình yêu, cùng với vẻ đẹp mang tính chuẩn mực truyền thống, tình yêu gắn liền với nỗi nhớ, với lòng thủy chung và cũng không thể thiếu niềm tin, nghị lực. Và khi phân tích 2 khổ cuối bài sóng, ta sẽ thấy hình ảnh một nữ sĩ với ước vọng về một tình yêu tan vào sóng để tình yêu hóa bất tử vĩnh hằng.

Đọc cả bài thơ ta thấy quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh, ngoài vẻ đẹp truyền thống là nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt và nghị lực niềm tin. Đến 3 khổ cuối, ta còn thấy nữ sĩ có một ước vọng thật đẹp là tình yêu được tan vào sóng để dâng hiến và bất tử vĩnh hằng.

Xuân Quỳnh được nhiều độc giả yêu mến không chỉ bởi sự đa tài mà còn bởi những vần thơ chân thành, giàu tình cảm và cũng rất đằm thắm như cách mà nữ thi sĩ yêu. Bởi vậy, chỉ có sóng mới là hình ảnh phù hợp nhất để tác giả thể hiện tình yêu nồng nhiệt của những người trẻ tuổi. Ba khổ thơ cuối là tiêu biểu cho tinh thần này.

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt đến đâu, lãng mạn bay bổng đến đâu thì vẫn gắn với đời thường. Vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời, với niềm tin sẽ tới đích:

Niềm tin và nghị lực, em tìm thấy ở thiên nhiên và chính mình. Khi đã yêu thật lòng, dù muôn vời cách trở chúng mình cũng vẫn đến được với nhau.

Dường như mọi thứ đều trở nên hợp lý khi người ta chìm đắm vào tình yêu. Và chẳng mấy ai khi đang yêu nồng cháy lại không mơ mộng về những ngày tháng tươi đẹp, về hạnh phúc phía trước. Xuân Quỳnh có lẽ cũng không ngoại lệ. Thế nhưng, dù khi yêu là chất ngất, là dâng trọn trái tim, Xuân Quỳnh cũng đồng thời tin rằng, những người yêu nhau sẽ có được hạnh phúc nếu biết kiên nhẫn, bởi sức mạnh của mỗi người trong đó có sức mạnh tình yêu được tạo nên bởi ý chí riêng của con người.

Qua đây ta thấy tác giả đang muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu lãng mạn lắm và những kẻ đang yêu cũng lắm điều mơ mộng, nhưng dù mơ mộng đến đâu cũng phải nhìn vào thực tế. Con người ta khi yêu thường không còn đủ lý trí, nhưng tình yêu chỉ đẹp, chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với những lý lẽ, những quy luật của cuộc đời. Những lý lẽ, quy luật ấy hẳn rằng có nhiều nỗi trái ngang, nhiều trở ngại. Điều này đòi hỏi sự chân thành và gắn bó giữa hai người để vượt qua khó khăn và vun đắp tình yêu vững bền, tình yêu mà tất cả những ai đang yêu, được yêu và muốn đều hướng tới.

Cuộc đời con người vô thường, dài ngắn cũng không biết đong đếm ra sao. Nhưng dù dài bao nhiêu, năm tháng vẫn trôi qua mà không chờ đợi ai. Và biển rộng cũng là thách thức, khó khăn trước mắt của tình yêu. Biển rộng được sử dụng đối sánh với từ dài của cuộc đời. Nhưng dài, rộng thế, nhưng mây vẫn cứ trôi, vạn vật cũng vẫn sinh tồn và cứ tin đi, tình yêu đôi ta đủ chân thành, thắm thiết rồi sẽ bền mãi với thời gian.

Đứng trước biển, những cảm thấu về tình yêu trỗi dậy, và những con sóng với Xuân Quỳnh như là tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”. Bởi bồi hồi mà bà khát khao yêu, để rồi mong ước mãnh liệt:

Cái câu hỏi “làm sao” ấy là lời tác giả tự hỏi cho mình, cũng là hỏi cho biết bao những kẻ đang yêu. Nhưng cũng như nhiều câu hỏi khác trong tình yêu, thật khó để có một câu trả lời cụ thể. Ước muốn được “tan ra” ấy chính là biểu hiện của tình yêu to lớn không thể đong đếm được. Xuân Quỳnh ước được biến thành “trăm ngàn con sóng nhỏ” để được hòa mình vào bể đời rộng lớn, được thoát khỏi những lo ấy, những băn khoăn mà toàn tâm toàn ý tận cùng tình yêu tuổi trẻ mãnh liệt, ngọt ngào và hạnh phúc. Tình yêu chẳng ai biết trước mai sau, nhưng hôm nay khi yêu hãy yêu như chưa từng được sống. Có lẽ những người đang yêu cũng mang khát vọng như Xuân Quỳnh, là được chia sẻ, được tha thiết nói về tình yêu của mình với mọi người, để hòa vào với “biển lớn tình yêu”. Như thế, tình yêu sẽ còn tồn tại đến ngàn năm sau.

Qua 3 khổ cuối bài sóng của Xuân Quỳnh, ta như được chìm vào không gian ngập tràn tình yêu. Bài thơ kết thúc, nhưng âm hưởng của tình yêu còn vang mãi. Thể thơ năm chữ có tiết tấu nhanh góp phần thể hiện được khát khao được yêu của nữ sĩ.

Hình ảnh những con sóng biển có lẽ cũng là những cơn sóng cuộc đời, có lúc dữ dội, có lúc dịu êm. Và dù trong khó khăn hay lúc bình lặng, điều cần nhất và cũng dễ nhất là hãy cứ yêu thương.

Đã nhiều năm trôi qua, quan niệm tình yêu của mỗi thế hệ đều có những thay đổi, nhưng có lẽ bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh mãi là tiếng lòng của những người đang yêu, khao khát được yêu. Bởi chẳng có ai yêu mà lại không khao khát hạnh phúc, khao khát vững bền. Vì vậy, thơ của Xuân Quỳnh sẽ còn khiến người đời nhớ mãi như cách người ta nhớ đến chị, người phụ nữ luôn sống hết mình cho cuộc đời.

Nhà thơ Xuân Quỳnh đã bước vào địa hạt của thi ca với hành trang là tiếng nói của một trái tim chân thành, nhiệt huyết, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Sóng” của nhà thơ, đặc biệt là qua ba khổ cuối bài thơ đã nói lên những lo âu, niềm dự cảm nhưng vẫn luôn tin tưởng và hi vọng về một tình yêu vĩnh cửu trong cuộc đời qua cách nhìn của nhà thơ.

Để đến được bến bờ hạnh phúc của tình yêu luôn không hề dễ dàng, con người luôn phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, cách trở. Sẽ có những hành trình tình yêu sẽ đến được trái ngọt nhưng cũng có những hành trình tình yêu phải kết thúc dang dở, lỡ mối nhân duyên. Và chính sức mạnh của niềm tin sẽ giúp các cặp đôi đến được bến bờ hạnh phúc dù cho thử thách ra sao. Và chỉ khi đến được bến bờ con sóng mới thôi thao thức. Tình yêu đích thực luôn tin vào bến bờ hạnh phúc và luôn khao khát được đặt chân đến miền đất đó.

Mặc dù biết rằng khi yêu con người cần có niềm tin nhưng chúng ta vẫn luôn mang trong mình những dự cảm, lo âu đặc biệt là với tâm hồn nhạy cảm của người phụ nữ:

Dòng thời gian vẫn luôn chảy trôi không ngừng nghỉ một đi không bao giờ trở lại đối lập với sự hữu hạn của đời người, sự vô tình của cuộc đời với kiếp người ngắn ngủi. Cuộc đời rất dài nhưng rồi vẫn qua đi vì năm tháng vẫn tiếp diễn. vì thế nhiều khi tình yêu của con người không thể vượt qua nổi thời gian và sự tàn phai theo năm tháng. Chính vì thế mà người phụ nữ luôn lo âu về tương lai về tình yêu với những trăn trở băn khoăn là điều không thể nào tránh khỏi được. Thơ là tình yêu là định mệnh của Xuân Quỳnh, là mối dây ràng buộc nhà thơ, là động lực giúp Xuân Quỳnh vượt qua những trắc trở của cuộc đời. Thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn chinh phục mọi người từ nhiều thế hệ với những cảm xúc nồng nàn. Phong cách thơ từ đó cũng định hình và được in đậm trong bài thơ này, và cả đoạn thơ trên.

Kết thúc bài thơ là niềm tin, hi vọng, khát khao được vĩnh cửu hóa tình yêu của nhà thơ:

Ở đây làm người đọc liên tưởng đến câu chuyện cô nàng tiên cá muốn trở thành bọt biển để cứu sống người mình yêu. Trong đoạn thơ trên khát vọng muốn vĩnh hằng tình yêu được thể hiện rất rõ qua từ ‘trăm con sóng’ không thể nào kể xiết. Khát vọng ấy cũng là muốn hòa nhập vào biển lớn tình yêu để trở thành một tình yêu lâu bền và trường tồn.

Trước Xuân Quỳnh đã có không ít những nhà thơ nữ viết về tình yêu nhưng hiếm có ai dám bày tỏ trực tiếp và mãnh liệt như Xuân Quỳnh. Dám nói thật lòng mình, điều đó chứng tỏ nhà thơ không những có niềm tin vào cuộc đời mà còn vững tin ở chính bản thân mình. Con sóng Xuân Quỳnh dẫu có tan ra thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu, giữ biển lớn cuộc đời thì vẫn cứ là con sóng Xuân Quỳnh vỗ mãi đến ngàn năm.

Trong mối tương quan của bền chặt với con người, “ Sóng” của Xuân Quỳnh còn là suy ngẫm tâm tư rất riêng của nhà thơ giãi bày với cuộc đời để từ đó nhận ra một tâm hồn thơ của nữ sĩ cá tính. Bài thơ đã vượt ra không khí của hiện thực chiến tranh, vượt qua cái chết và khổ đau để ca ngợi sự sống vĩnh cửu của tình yêu, tạo thêm một nét đáng yêu của con người thời đại chống Mĩ biết yêu thương chung thủy và tìm ra lẽ sống tốt đẹp trên cơ sở của sự hài hòa những quan hệ riêng chung.

Ba khổ thơ cuối khép lại toàn bài thơ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ về tình yêu, về những cảm xúc, tâm trạng của người con gái trong tình yêu. Nhịp điệu tâm hồn của người con gái được biểu hiện qua nhịp điệu của những con sóng. Từ đó cũng đã thể hiện phong cách thơ Xuân Quỳnh vừa tinh tế, nhạy cảm, vừa táo bạo mãnh liệt trong tình yêu. Tình yêu vẫn luôn là một ẩn bí hấp dẫn bất cứ một nghệ sĩ nào ghé qua mảnh đất ấy và khi Xuân Quỳnh đặt chân đến đã để lại một bản lĩnh, một tinh thần độc đáo, riêng biệt.

“Vì thích thú, làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức, khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống, mà sống tức là phải viết”. Chính bởi luôn tâm niệm như vậy nên Xuân Quỳnh đã sáng tạo và đem đến cho người đọc rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có bài thơ “Sóng”. Ba khổ thơ cuối của bài được coi là những dòng thơ chứa chan cảm xúc, nghĩ suy của người con gái trong tình yêu, lưu lại trong tâm hồn người đọc nhiều dư âm cảm xúc mãnh liệt.

Xuân Quỳnh là một nhà thơ mồ côi mẹ sớm, phải sống với bà từ nhỏ. Có lẽ vì thế trong thơ nữ sĩ luôn thường trực một niềm khát khao yêu thương và sự thiết tha hạnh phúc gia đình. Rời bỏ nghề diễn viên múa trong tiếc nuối của người hâm mộ, Xuân Quỳnh đã lưu dấu ấn cá nhân mình trong trái tim người đọc với một vai trò mới – một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Say mê, đắm mình trong thơ ca, nữ sĩ coi thơ là sự sống, là tình yêu, là toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời mình. Một cách tài hoa và đầy tinh tế, nhà thơ đã gửi tiếng lòng của một tâm hồn giàu trắc ẩn, táo bạo nhưng cũng rất mực đằm thắm vào những trang thơ. “Sóng” là một bài thơ nổi bật của nhà thơ, được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế Xuân Quỳnh đến biển Diêm Điền, Thái Bình. Những cảm xúc dạt dào, những nghĩ suy sâu lắng nhà thơ gửi vào những câu thơ, hình ảnh trong ba khổ thơ cuối bài đã thực sự để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng.

Sau khi phác họa hình tượng sóng cùng những quy luật của tình yêu, hành trình tìm kiếm nguồn cội hay những sắc thái của tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh tiếp tục thể hiện suy nghĩ của mình về nỗi nhớ, sự thủy chung và khát vọng trong tình yêu qua hình tượng sóng ở ba khổ thơ cuối bài. Khổ thơ thứ bảy và tám nhà thơ nói đến niềm tin và dự cảm âu lo về tình yêu trong trái tim người con gái:

Đì cùng với niềm tin mãnh liệt là những dư vang của một dự cảm đầy lo âu ngổn ngang trong tâm trí người con gái. Cặp quan hệ từ “tuy..vẫn”, “dẫu…vẫn” như trầm xuống, như lắng lại trong một niềm suy tư xen lẫn cảm giác ngậm ngùi. Hình ảnh thơ trong đoạn cũng khẳng định: giống như cuộc đời bao la chẳng có gì là vĩnh cửu ngoài kia, tình yêu trong trái tim con người cũng chỉ là một thoáng phù vân dễ đến nhưng cũng dễ tan biến. Chính bởi vậy mà khi còn đang độ thanh xuân trẻ tuổi dại lòng, Xuân Quỳnh đã từng gửi những suy tư của bản thân vào những câu thơ: “Nhưng tôi biết mùa xuân rồi sẽ qua/ Hôm nay non mai cỏ sẽ già”. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây như có sự gặp gỡ cảm xúc thơ trong “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu:

Từ yêu, người con gái bỗng có những lo âu, dự cảm về sự bền lâu của tình yêu. Đó dường như cũng là một biểu hiện của trái tim đang yêu tha thiết, nồng nàn.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ là những khát vọng của người con gái trong tình yêu được nhà thơ gửi gắm qua hình tượng sóng:

Khát vọng “tan ra” ở đây có lẽ chính là khát khao cháy bỏng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái vô cùng của không gian biển cả bao la và thời gian vĩnh hằng của vũ trụ. Nhà thơ khiến ta cảm tưởng như người con gái, hay cũng chính là tâm tư nhà thơ, đang khát khao được vĩnh viễn hóa tình yêu, để dùng tình yêu thiêng liêng, đẹp đẽ để nối dài cái hữu hạn, cái ngắn ngủi của một đời người.

Xuân Quỳnh đã phác họa ra một hình tượng sóng mang nhiều ý nghĩa xuyên suốt bài thơ để gửi gắm những ý niệm sâu xa, cảm xúc mãnh liệt của bản thân khi nghĩ về tình yêu. Ba khổ thơ cuối bài nhà thơ đã thực sự để lại trong lòng người nhiều ấn tượng với hình ảnh sóng đi cùng với nỗi lo âu, niềm tin và khát vọng của tâm hồn người con gái khi yêu. Ba khổ thơ đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm cũng như khẳng định được vị trí của Xuân Quỳnh trong làng thơ ca hiện đại Việt Nam.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là một tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ngoài những tác phẩm đã trở thành ca khúc bất tử như “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”…thì “Sóng” cũng là bài thơ về tình yêu có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. “Sóng” không chỉ thể hiện những nét tương đồng, những chiều dài của nỗi nhớ, những băn khoăn trong tình yêu mà còn thể hiện những suy tư lo âu trăn trở trước cuộc đời và khát vọng tình yêu, những nỗi niềm khát vọng ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn thơ sau:

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác tại biển Diêm Điền, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển cũng chính là con sóng lòng đang khát khao tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng song hành “sóng” và “em”

Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”

Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn, cũng như vậy! tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:

Cũng như vậy ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp,nhân hóa, ẩn dụ,sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:

Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn

Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu

Niềm tin, khát khao được sống mãi với tình yêu,người con gái ấy khát khao hóa thân vĩnh hằng vào tình yêu bất tử. Người phụ nữ nhỏ bé đã muốn

Đó là khát vọng được tan ra thành trăm con sóng lớn nhỏ hòa vào biển lớn để vỗ mãi ngàn năm khúc hát tình yêu. Khát khao bất tử hóa trong tình yêu nhưng trái tim nhà thơ không vị kỷ, tầm thường, nhỏ nhen cho riêng mình mà thật lớn lao, cao thượng. Nhà thơ đã hòa niềm hạnh phúc của riêng mình trong niềm hạnh phúc của cuộc đời rộng lớn, cái riêng tồn tại trong cái ta chung, bao la, rộng lớn ấy đã trở thành vĩnh cửu. Đó là một trái tim yêu rất Xuân Quỳnh

Lúc muốn tan ra thành sóng, lúc muốn trở về đúng nghĩa trái tim. Xoay trở mọi hướng, ao ước bao điều, trái tim yêu Xuân Quỳnh vẫn hướng về mục đích duy nhất: tình yêu vĩnh cửu. Ao ước tan ra thành trăm con sóng nhỏ đâu chỉ thỏa khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu mà còn là cháy hết mình, dân hiến hết mình của nữ sĩ.

Đoạn thơ trên trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ thành công ở nội dung mà còn thành công ở mặt nghệ thuật trong việc sử dụng thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết

Qua những suy tư, lo âu khát vọng trong tình yêu nói riêng và qua bài thơ Sóng nói chung, đã cho người đọc một cảm nhận mới mẻ và sâu sắc hơn trong tình yêu. Nó vượt qua mọi giới hạn, mọi quy luật để tồn tại mãi mãi vĩnh hằng trong tình yêu bất tử. Đó chính là giá trị nhân văn lớn lao mà Xuân Quỳnh để lại cho đọc giả mọi thế hệ qua bài thơ Sóng.

Nhà thơ Huy Cận đã từng nói, khi đi cạnh bờ biển, thấy có cảm giác xao động đến kì lạ trong con người. Với ông, cái xao động kì lạ đó chính là cảm giác về sự lớn lao của con người khi đi dọc bờ biển, tuy mênh mông ấy, nhưng con người vẫn như làm chủ được thiên nhiên, biển cả. Còn với Xuân Quỳnh – người con gái xứ lụa Hà Đông, thì cái ngợm ngợm khi đi dọc bờ biển bao la, với những con sóng thi nhau tấp vào bờ, lại là sóng tình, sóng trong lòng người con gái đang yêu nói chung và tác giả nói riêng. Một tình yêu với những nỗi trăn trở, khát khao được hòa quyện trong cái tình cảm bao la ấy.

Nếu Lưu Quang Vũ được coi là kịch tác gia tiêu biểu, tiên phong trong việc giải phẫu ung nhọt của con người về lòng tham sau khi chiến tranh kết thúc,thì Xuân Quỳnh, thơ của Xuân Quỳnh lại mang khát khao yêu thương, khát khao là thế nhưng vẫn đầy trắc ẩn. Ba khổ thơ cuối trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người con gái đang yêu khát khao được yêu thương, gắn bó.

(Chinh phụ ngâm khúc)

Hay:

Đều là nỗi nhớ thương trong tình yêu, nhưng mỗi nhà thơ có một cách thể hiện nỗi lòng mình rất khác nhau. Chiếc khăn tay, chiếc vòng kỉ niệm hay những bức thư tình, với Xuân Quỳnh, bà sử dụng hình ảnh ngọn sóng để diễn tả tình yêu của mình, tiếng sóng như tiếng lòng lúc “dữ dội” lúc “dịu êm” lúc “ồn ào” khi “lặng lẽ”

Em hướng về anh, như sóng hướng vào bờ. Như ngay trước mắt ta, hình ảnh người con gái đang đứng bên bờ biển, nhỏ bé nhưng trong lòng đầy nỗi khắc khoải mong chờ. Khoảng cách cũng là một trở ngại trong tình yêu, nhưng với Xuân Quỳnh, dù có xa cách nhưng trong lòng luôn có một niềm tin, không hề “xa mặt mà cách lòng”. Tuy trong lòng vẫn mang niềm tin đó, sự chờ đợi là thế, nhưng dường như trong lòng người con gái đang đứng kia vẫn có một chút hờn trách người mình yêu, nhưng không hề ích kỉ, hờn trách là thế, nhưng trong lòng vẫn tràn đầy niềm tin và sự mong chờ. Dù xa xôi bao nhiêu, khoảng cách dù lớn như thế nào, thì sóng vẫn cứ mãi tấp vào bờ, bờ sinh ra là để cho sóng vỗ, như bến đậu bình yên. Tự như một lời trách móc nhẹ nhàng “Trăm ngàn con sóng – Con nào chẳng tới bờ” còn anh thì sao ? Trong tình yêu, một chút nhớ, một chút thương, một chút dỗi hờn làm cho cuộc sống thêm phần thi vị. Xuân Quỳnh mượn hình ảnh sóng để nói lên tâm trạng mình, đây không chỉ là con sóng vô tri vô giác nữa, mà đã trở thành sóng tình, sóng trong lòng tác giả, sóng của người con gái đang yêu. Sóng và bờ giờ đây như có thể, nó được thổi hồn, mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu. Sóng không còn là “Sóng gợn Trường Giang … “trong thơ Huy Cận, mà đã thành sóng tình, sục sôi trong lòng người đang yêu. Qua hình ảnh bài thơ, ta thấy một Xuân Quỳnh trong tình yêu, vừa táo bạo chủ động, vừa đằm thắm thủy chung, một nét đẹp rất truyền thống của người dân Việt Nam. Đã có bao cuộc tình, dù khó khăn cách trở như Thúy Kiều – Kim Trọng, họ phải xa cách, gặp bao nhiêu khó khăn trong tình yêu, nhưng cuối cùng họ vẫn vượt qua, và tìm được nhau, như “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ “, Xuân Quỳnh luôn tin vào cái gì đó, như sức mạnh vô hình trong tình yêu. Không gian là vậy, tác giả lại trăn trở trước cuồng quay của thời gian

Câu thơ thể hiện một nét rất nữ tính trong tình yêu. Cuộc đời tuy dài thế, nhưng dài là bao lâu ? Thời gian thi vẫn hàng ngày trôi qua. Cuộc đời tuy dài thế, biển kia tuy rông đến mấy, nhưng cũng làm sao níu kéo được thời gian, thanh xuân vẫn dần trôi qua, làm sao có thể giữ lại. Đây là nỗi trăn trở của Xuân Quỳnh, cũng là tiếng lòng của bao người con gái đang yêu khác. Mặc dù dẫu cho yêu hết mình, một lòng son sắc, nhưng cuộc đời thì ngắn ngủi làm sao sống mãi trong tình yêu. Vì thế Xuân Quỳnh đã khao khát

Khao khát đó lớn dần, như muốn phá tan không gian và thời gian, muốn được tan ra hòa quyện trong tình yêu đó. Không chờ đợi đối phương đáp trả, vẫn mãnh liệt, ào ạt tình thương. Người ta có nói, trong tình yêu lắm ích kỷ, hẹp hòi, nhưng với Xuân Quỳnh không hề có một sự ích kỷ hẹp hòi nào, mốt sự hy sinh, một khao khát được hòa quyện vào biển lớn tình yêu. Khao khát ấy thật hợp lý khi họ đang đắm chìm trong tình yêu thương. Xuân Quỳnh hiểu được, chỉ như vậy thì tình yêu mới bền vững tồn tại mãi mới thời gian.

Một Xuân Quỳnh nhẹ nhàng đằm thắm, một Xuân Quỳnh khiến người khác nể phục khi trong tình yêu, dám yêu hết mình, dám hy sinh, dám khao khát và mơ mộng. Qua bài thơ Sóng nói chung và ba khổ thơ cuối bài thơ nói riêng, ta thấy một Xuân Quỳnh đầy chất thơ lãng mạn, một nhà thơ tài năng trong phong trào thơ ca của kho tàng dân tộc Việt Nam. Với giọng điệu nhẹ nhàng, lúc mãnh liệt, đôi khi sâu lắng , ba khổ thơ cuối đã cho ta thấy, một tâm hồn trăn trở, khao khát yêu thương gắn bó. Một tình yêu đẹp, lãng mạn, sự hy sinh trong tình yêu của tác giả.

Có những vần thơ tình đẹp như thế. Như giọng chim ríu rít đa điêu đa thanh giữa mùa xuân. Có những vần thơ nói lên niềm tin và mong ước về tình yêu hạnh phúc đẹp như thế:

Đây là hai khổ thơ cuối bài thơ ngũ ngôn trường một bài thơ tình tuyệt tác viết về nỗi khát vọng tình yêu của thiếu nữ.

Từ thương nhớ đợi chờ: “Cả trong mơ còn thức” tâm hồn thiếu nữ ánh lên một niềm tin mãnh liệt trong tình yêu. “Năm tháng” nhất định sẽ “đi qua” cuộc đời “dài” . “Mây” trên bầu trời nhất định sẽ vượt qua biển “rộng” để “bay xa”. Thời gian dài dằng dặng gian rộng mênh mông, cũng như tình yêu là vô cùng mãnh liệt:

Câu 1, 2 song hành đối xứng với câu 3, 4 làm cho giọng thơ, âm điệu thơ tha thiết, ngọt ngào. Cấu trúc chính – phụ được sử dụng đắc địa: “tuy… vẫn… “, “dẫu… vẫn”, ý thơ được khẳng định mạnh mẽ. Điệp từ “vẫn” biểu lộ một niềm tin về tình yêu: “Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. “Năm tháng” và “mây” là 2 ẩn dụ nói về tình yêu, một tình yêu đẹp hướng tới hạnh phúc.

Tình yêu như con sóng trên biển: “Dữ dội êm – Ồn ào và lặng”. Có lúc “em” lại cảm thấy cô đơn trong xa cách:

(“Chỉ có sóng và em”)

Lại có lúc tràn ngập nỗi nhớ khắc khoải chờ mong:

(“Thời gian trắng”)

Còn ở khổ thơ này là niềm tin, một niềm tin mãnh liệt: Con thuyền tình nhất định cập bến bờ hạnh phúc. Nữ sĩ đã lấy độ dài của thời gian, chiều rộng của không gian để đo niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Các từ ngữ: “vẫn đi qua”, “vẫn bay về xa” là sự kết đọng “đinh ninh lời thề” của một tình yêu đẹp.

Khổ cuối bài thơ là lời nguyện cầu của em về một tình yêu thủy chung bền vững. Hình tượng sóng hội tụ bao cảm xúc nồng hậu:

Hai tiếng “làm sao” gợi lên một niềm mong ước cháy bỏng tâm hồn “em”. Sóng trên đại dương trường tồn bất diệt. “Trăm con sóng nhỏ” rì rào vỗ, xôn xao reo “giữa biển lớn tình yêu” mang vẻ đẹp nhân văn cao quý của tình yêu. Đó là niềm ước mong của thiếu nữ được sống trong hạnh phúc bền vững như những con sóng vỗ mãi trên “biển lớn tình yêu” đến ngàn năm sau. Con số “ngàn năm”, “nghìn năm”, hơn một lần đã từng làm ta xúc động:

“Thề non nước”

Tản Đà

Tình yêu không hề làm cho em trở nên nhỏ bé ích kỷ; trái lại tình yêu của em sẽ mãi mãi chan hòa trong tình thương của đồng bào, xã hội. Một ý tưởng rất đẹp, rất mới trong tình yêu. Một trái tim đa tình và nhân hậu biết bao!

Đoạn thơ hội tụ bão vẻ đẹp. Một ý tưởng đẹp: niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Lời thơ đẹp: thanh tao, ý vị. Giọng thơ nồng nàn, ngọt ngào. Hình tượng “con sóng nhỏ” và “biển lớn tình yêu” rất sáng tạo. Đoạn thơ mang vẻ đẹp nhân văn sáng giá

Nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Xuân Quỳnh ta biết đến “chị nổi lên trên dàn đồng ca chung thời kì lửa cháy”, chị nổi lên như một nốt nhạc tươi xanh trong nền văn chương Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cùng với những nhà thơ như: Trần Mạnh Hảo, Trần Đăng Khoa, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Nguyễn Khoa Điềm… Xuân Quỳnh trưởng thành trong nền văn chương thời kì kháng chiến. Thời kì kháng chiến chống Mỹ là giai đoạn mà chị viết sung sức, viết đều tay và để lại rất nhiều bài thơ hay trên dòng chảy của nền văn học Việt Nam như bài “Tự hát” “Hoa cỏ may” “Hoa dọc chiến hào”… Nếu ta theo sát sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh ta sẽ nhận thấy điểm mạnh trong thơ ca của Xuân Quỳnh đó là nỗi niềm âu lo vấp vỏng của người con gái khi đứng trước hạnh phúc đời thường. “Sóng” là một bài thơ như thế, được viết khi tác giả đứng trước biển Diêm Điền. Viết về tâm tư của người con gái, mang khát vọng xô tới bờ anh. Trở lại với Xuân Diệu, Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” là một hoàng tử của tình yêu, là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới trưởng thành trước năm 1945. Là nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất đến nền thơ ca Việt Nam. Đặc biệt là thơ mới. Nhà thơ Xuân Diệu là nhà thơ bị ám ảnh bởi bước đi của thời gian, là một nhà thơ bị ảnh hưởng nhiều bởi thơ ca phương Tây. Một trong số tác phẩm tiêu biểu của Xuân Diệu phải kể đến đó là bài thơ “Vội vàng” được rút ra từ tập “Thơ thơ” , một bông hoa đầu mùa đầy hương sắc của Xuân Diệu. Mặc dù Xuân Quỳnh và Xuân Diệu có những sở trường và điểm yếu khác nhau, họ có phong cách riêng. Nhưng họ đồng điệu khi viết về khát vọng của tuổi trẻ và tình yêu.

Bài thơ Sóng gồm 9 khổ thơ, mỗi khổ mang cho mình một vẻ đẹp rất riêng cũng như tình cảm của người con gái trong tình yêu. Trong thơ ca xưa thì sóng luôn luôn tượng trưng cho nỗi lòng của người con trai. Như trong bài Biển của Xuân Diệu đã từng viết:

Còn trong bài thơ Sóng, lần đầu tiên ta thấy, người chủ động trong tình yêu lại là con gái .

Ở khổ thơ này, nếu sóng tượng trưng cho tình cảm của người con gái, còn bờ là tượng trưng cho tình cảm người con trai thì ở đây đại dương là tượng trưng cho xã hội rộng lớn mênh mông bao la, hàng triệu hàng tỷ người phụ nữ đang yêu và mong muốn được yêu. Khát vọng của tình yêu đó là niềm tin của nhà thơ vào tình yêu. Mặc dù khi nhắc về tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh đã trải qua rất nhiều biến cố và thăng trầm trong tình cảm. nhưng chị vẫn có niềm tin vững chắc vào tình yêu, rồi ai hoặc ai đi chăng nữa, cũng sẽ tìm được một nửa tình yêu cho đời mình. Trong cuộc sống hay trong tình yêu cũng vậy, rõ ràng không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng và đã là những người thực lòng yêu nhau thì họ sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn và thử thách. Đó chính là vẻ đẹp của khổ thơ thứ 7.

Advertisement

Thơ là tiếng nói cảm xúc, là tiếng nói của con tim. Khổ thơ thứ 8 đều là những câu thơ, những trải nghiệm sống, những triết lý sống, những câu thơ rất đỗi bình thường, giản dị. Và nó đều là những câu thơ rất mộc mạc. Nói về điều gì? Về những sự thật, những hiển nhiên trong đời. Tình yêu xuất hiện trong mỗi chúng ta như những điều rất hiển nhiên, rất đỗi bình thường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Mọi người sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc và đây là những quyền không ai có thể xâm phạm được.”. Hoặc chúng ta có thể biết đến thơ ca của Xuân Diệu, ông đã từng nói rằng:

Ở đây ta thấy, tình yêu xuất hiện một cách rất đỗi tự nhiên, đỗi chân thành, giản dị, mộc mạc và bình thường. Đó là những mưu cầu rất đỗi bình thường của con người.

Đến với khổ 9, đó là khi sóng đến với bờ anh. Bài thơ “Sóng” là một cuộc hành trình của sóng đến với bờ anh. Và khi đến với bờ anh thì khát vọng của nó đó là được “tan ra” và hòa vào nhau để trở thành là một. Để tình yêu ấy trở nên trường tồn và bất tử với thời gian. Thời gian trôi qua, khiến chúng ta già đi nhưng nó không có nghĩa khiến tình yêu trở nên nhàm chán. Mà tình yêu của ta sẽ trường tồn, bất tử với thời gian dù cuộc đời con người là hữu hạn. Thế nhưng, tình yêu chúng ta dành cho nhau sẽ là vô hạn đó là niềm khát khao được cháy hết mình và sống hết mình cho tình yêu.

Trở lại với tác phẩm Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, những câu thơ cuối khác hẳn với câu thơ đầu.

Ở những câu thơ đầu, nhân xưng của tác giả là tôi . “Tôi muốn tắt nắng” “Tôi muốn buộc gió” một cái tôi đầy bản lĩnh. Tắt nắng để những gam màu cuộc sống không phai nhạt . Buộc gió để giữ lại những hương thơm hương sắc của cuộc đời, giữ lại những gì đẹp nhất ,đó là ước muốn đoạt lấy quyền uy của vũ trụ. Đó chính là Xuân Diệu – ông vua của mảng thơ tình. Là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thế mà, đến những câu thơ này ta lại bắt gặp đó là từ cái tôi của cá nhân. Trong bài thơ “Hy Mã Lạp Sơn” của Xuân Quỳnh:

Xuân Quỳnh là một trong những cây bút trẻ xuất sắc nhất trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhà thơ đi sâu vào khai phá sức mạnh của đời sống nội tâm, kỉ niệm tuổi thơ, tình yêu, gia đình, hiện thực đời sống và những sự kiện xã hội như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh có xu hướng hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không phải một thứ tháp ngà, xa lạ với đời sống. Bài thơ Sóng thể hiện sâu sắc phong cách thơ ấy. Nếu ở đầu bài thơ, nữ sĩ tìm cách lí giải ngọn nguồn của tình yêu thì đến khổ thơ 7, nhà thơ trở về với những rung động vĩnh hằng của con tim, làm toát lên vẻ đẹp hồn hậu của người phụ nữ trong tình yêu hết sức nhuần nhị.

Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”: Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin:

Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc. Hai câu thơ sau là sự khẳng định:

Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.

Trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:

Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

“Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.

Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế , mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.

Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):

“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu.

Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:

Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?

Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.

“Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai – Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.

Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).

Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc.

Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

Thơ Xuân Quỳnh giản dị nhưng không bao giờ cũ vì nó cũng có triết lí. Đó là thứ triết lí của thi ca, thứ triết lí đôn hậu của một người phụ nữ làm thơ. Xuân Quỳnh nói chuyện tình yêu, chuyện cái chết, chuyện được, chuyện mất một cách rất giản dị mà thấu nhập và đọng mãi lòng người.

Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Viếng Lăng Bác (Sơ Đồ Tư Duy) 3 Dàn Ý &Amp; 21 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác

Dàn ý cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác (3 mẫu)

Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn

Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất (15 mẫu)

Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác

Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác

Cảm nhận bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương

Cảm nhận Viếng lăng Bác hay nhất

1. Mở bài

Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Viễn Phương

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

2. Thân bài

a) Cảm xúc của tác giả trước cảnh quan bên ngoài lăng (khổ 1)

* Câu thơ thứ nhất như một lời thông báo giản dị mà chứa đựng nhiều tình cảm lớn lao.

Cách xưng hô “Con – Bác”: Thể hiện sự gần gũi, thân thiết, không có khoảng cách.

Tác giả dùng từ thay thế “thăm” không phải “viếng” làm vơi bớt đi nỗi đau đớn ẩn sâu trong đáy lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.

Cụm từ “Con ở miền Nam” vừa thể hiện nỗi đau mất mát, vừa thể hiện niềm tự hào lớn lao: Miền Nam gian khổ mà anh dũng.

Hình ảnh ấn tượng: “hàng tre” vừa có nghĩa thực (là loài cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam), vừa có nghĩa biểu tượng (hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp…)

Dùng từ cảm thán: “Ôi!” biểu thị niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre.

b) Cảm xúc của nhà thơ trước hình ảnh dòng người chầm chậm vào lăng viếng Bác ( khổ 2).

– 2 câu thơ đầu: Cách dùng từ đặc sắc, giàu sức sáng tạo: cặp từ tả thực và ẩn dụ sóng đôi.

“Mặt trời” thứ nhất: Là mặt trời từ thiên nhiên của tạo hóa.

“Mặt trời” thứ 2: Là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác.

Chi tiết “rất đỏ” đã gợi lên một trái tim đầy yêu thương, nhiệt huyết vì nhân dân của Bác.

– 2 câu thơ sau:

Điệp từ “ngày ngày”

Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực gợi tả hằng ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương.

Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ: Tác giả ví dòng người dài như kết thành tràng hoa để dâng lên Người.

c) Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài của Bác trong lăng (4 câu tiếp theo).

Tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng, thổn thức:

Từ ngữ “giấc ngủ bình yên”: Chỉ là giấc ngủ bình thường, không phải giấc ngủ vĩnh viễn. Bình yên trong niềm yêu thương của con người và vạn vật.

Hình ảnh “vầng trăng” được nhà thơ dùng để ví với Bác.

Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” gợi lên những suy ngẫm về con người vĩ đại, cao cả, bất diệt.

Câu thơ cuối là một sự thật: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là một nỗi đau vô hạn, xót thương. Dù lí trí đã không muốn tin đó là sự thật.

d) Cảm xúc của tác giả trước lúc sắp phải về miền Nam (khổ cuối).

Lòng thương nhớ bấy lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào. Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương, lưu luyến không nỡ rời xa.

Điệp từ “muốn làm” cùng các hình ảnh đứng sau đó đã tạo nên nhịp thơ dồn dập diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ và của tất cả mọi người.

Hình ảnh cây tre được lặp lại ở câu thơ cuối mang thêm một ý nghĩa mới.

3. Kết Bài

Bài thơ là nỗi lòng không chỉ của nhà thơ mà của hàng triệu trái tim nhân loại muốn thể hiện sự thành kính, biết ơn sâu sắc tới vị lãnh tụ kính yêu của cả nước.

Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra thắng lợi, đất nước thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Bài thơ thể hiện lòng kính yêu và cả sự xót đau vô hạn của Viễn Phương và cả của nhân dân miền Nam đối với Bác kính yêu.

Khổ một là cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy hình ảnh hàng tre:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Câu thơ là một lời thông báo nhưng lại gợi ra nỗi xúc động của người con phương xa. Cách xưng hô “con-Bác” vừa thiêng liêng, thành kính vừa gần gũi, thân mật. Nỗi đau chia cắt nén lại trong chữ “thăm”, con từ miền Nam ra thăm nơi cha ở, thăm chỗ cha nằm. Lời thơ là tiếng nói trái tim chân thành, tha thiết như nén hương thơm, được Viễn Phương thành kính dâng lên người cha kính yêu.

Từ miền Nam, sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được ra viếng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và ấn tượng đậm nét là hàng tre bát ngát, xanh xanh đứng thẳng hàng trong sương sớm:

Cây tre là biểu tượng của dân tộc với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường. Thán từ “Ôi” không chỉ thể hiện niềm xúc động, nghẹn ngào mà còn thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả khi được gặp lại ở lăng Bác một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam. Quanh lăng Bác, hàng tre vẫn đứng thẳng hàng canh giấc ngủ cho Người, cả dân tộc vẫn đoàn kết và quần tụ quanh người cha già kính yêu ngay cả khi Người đã nằm xuống.

Sang đến khổ thơ thứ 2, Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc về Bác, về những dòng người vào viếng Bác. Hai câu thơ đầu rực sáng với hai hình ảnh “Mặt trời”:

Vầng “mặt trời trong lăng rất đỏ” chính là Bác. Bác là vầng mặt trời của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người mang đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp ấy đã thể hiện công lao vĩ đại, không gì có thể sánh được của Bác với đất nước, con người Việt Nam. Sự xúc động và lòng biết ơn vô hạn đã giúp nhà thơ có sự sáng tạo độc đáo khi nhận ra dù đã nằm trong lăng, Bác vẫn là vầng mặt trời rất đỏ, một màu đỏ nồng nàn, rực rỡ tỏa ra từ trái tim, từ nhiệt huyết của Bác khiến mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ phải khâm phục, ngưỡng mộ.

Song hành với hình ảnh mặt đi qua trên lăng là hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ. Dòng người vào trong lăng được đặt trong một không gian đặc biệt, không gian thương nhớ. Cấu trúc “Ngày ngày đi…” lặp lại nhấn mạnh sự song hành của mặt trời và dòng người như khẳng định một quy luật: mặt trời đi qua trên lăng còn dòng người đi trong thương nhớ. Nỗi nhớ thương người cha già kính yêu của cả dân tộc Việt Nam là vô tận. Dòng người được miêu tả bằng hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, độc đáo “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Từ một hình ảnh thực, dòng người với vòng hoa đủ loại màu sắc, quần áo trông xa như một tràng hoa, tác giả đã đưa ra một hình ảnh tượng trưng đặc sắc. Mỗi con người là một bông hoa, cả dòng người kết thành một tràng hoa dâng lên Bác những gì đẹp nhất của mình. Hình ảnh ẩn dụ “Bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương khẳng định cuộc đời Bác như một mùa xuân vĩnh hằng.

Khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:

Hai câu thơ cân đối, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng và yên tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Bác đang ngủ trong một giấc ngủ bình yên và thanh thản. Gam màu của mạch thơ như chói lọi và rực rỡ của khổ thơ trên đã chuyển thành một gam màu trong sáng, tuyệt đẹp, dịu nhẹ: vầng trăng sáng dịu hiền nâng niu giấc ngủ bình yên ấy. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ gợi về tâm hồn thi sĩ cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của nhà thơ Hồ Chí Minh.

Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót khôn nguôi của tác giả được thể hiện sâu sắc ở hai câu thơ:

Dù vẫn tin trời xanh là bất diệt nhưng vẫn đau đớn về sự ra đi của Bác. Lí trí vẫn khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu) mà vẫn nghe thấy đau nhói ở trong tim. Câu thơ cuối cùng trực tiếp thể hiện nỗi đau xót khôn nguôi của người trước một mất mát không gì có thể bù đắp được.

Khổ thơ cuối cùng là nguyện ước của tác giả, nguyện ước được ở mãi mãi bên Bác. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc của người Nam Bộ. “Mai về” có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy thương, thấy nhớ, thấy lưu luyến chẳng muốn xa rời. Càng không muốn chia xa thì nguyện ước được ở bên Bác càng mãnh liệt:

Tác giả gửi gắm lòng mình nhập vào cảnh vật ở lăng Bác. Ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng đó là nguyện ước được sống, được cống hiến mình cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với nhịp điệu dồn dập ở câu thơ cuối đã khẳng định nỗi niềm tha thiết và nguyện ước chân thành, mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Hình ảnh cây tre ở cuối bài tạo nên kết cấu đầu cuối tương xứng. Ước muốn được làm cây tre trung hiếu bên lăng Bác là ước muốn cao đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong những ước nguyện được hóa thân của nhà thơ. Cây tre trung hiếu là cây tre trung với Đảng, hiếu với dân. Tình cảm thủy chung, ân nghĩa làm âm hưởng câu thơ thêm tha thiết, lắng đọng mãi mãi trong dư âm của bài thơ.

“Viếng lăng Bác” là bài thơ đẹp và hay của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần được vào thăm lăng Bác. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam dành cho người cha già kính yêu. Với những nét đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, bài thơ đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.

Mỗi tác giả đều có những xúc cảm riêng khi viết về Hồ Chí Minh, là xót xa, nuối tiếc, tự hào, ngưỡng mộ cho một đời người vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên từ miền Nam ra thăm lăng Bác cũng đã giật mình nhận ra có những thay đổi trong chính cảm xúc của mình khi nhìn thấy Bác đang ngủ yên lành. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là lòng thành kính, ngưỡng mộ, biết ơn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại.

Năm 1976, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành; tác giả theo đoàn từ Nam ra viếng lăng Bác. Cảm xúc của một người con lần đầu tiên ra thăm lăng Bác thực sự dồn nén trong trái tim của tác giả. Bài thơ như một lời tri ân, lòng thành kính của một đứa con phương xa được trở về thăm người. Có lẽ những câu thơ này như nói hộ tấm lòng của rất nhiều người, rất nhiều con dân Việt Nam được ra thăm lăng Bác.

Xuyên suốt bài thơ chính là mạch cảm xúc rưng rưng, xúc động, không kìm nổi lòng mình khi đứng trước một người anh hùng dân tộc. Bài thơ được mở đầu như một tiếng reo vui:

Một tiếng reo vui nhẹ nhàng, một tiếng “con” chân thành và sâu sắc của một người con từ phương xa. Câu thơ trở nên mềm mại, cuốn hút, chan chứa tình cảm. Một hành trình từ miền Nam ra tận miền Bắc để chỉ được nhìn ngắm Hồ Chí Minh một lần. Mặc dù Bác Hồ đã không còn nữa nhưng nhà thơ không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm” rất nhẹ nhàng, tình cảm. Điều này cho thấy rằng mặc dù Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ nhưng lại rất gần gũi, thân thiết với nhân dân. Người đọc cảm nhận được rằng dường như Bác Hồ vẫn còn sống mãi, chỉ là Bác đang ngủ một giấc ngủ thật lâu, thật dài.

Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, biểu tượng cho sự dẻo dai, kiên cường, tinh thần không khuất phục của cả dân tộc ta. Mặc dù bão táp mưa sa nhưng hàng tre vẫn kiên cường, hiên ngang và bất khuất như chính tinh thần quật cường của dân tộc ta.

Viễn Phương mang một trái tim yêu thương và ngưỡng mộ với chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã mượn hình ảnh “mặt trời” biểu tượng cho Bác Hồ vĩ đại, luôn sống mãi với đất nước:

Rõ ràng hình ảnh “mặt trời” ở hai câu thơ hoàn toàn có ý nghĩa khác nhau. Một mặt trời thực của thiên nhiên, một mặt trời mang giá trị ẩn dụ, tượng trưng cho người cha già dân tộc. Phép ẩn dụ này đã làm tăng lên tính biểu cảm, phần nào làm sắc nét hơn tình cảm thương yêu, trân trọng mà Viễn Phương dành cho Người. Mặt trời luôn tồn tại để soi sáng nhân gian cũng như Hồ Chí Minh còn sống mãi trong lòng dân.

Hòa vào dòng người viếng thăm Bác, Viễn Phương xúc động nghẹn ngào:

Đời người hữu hạn, thời gian vô hạn. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tiếc thương cho dân tộc. Niềm thương nhớ ấy kết thành những “tràng hoa” dâng Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” chính là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến cho dân tộc. Hồ Chí Minh chính là mùa xuân lớn của đất nước ta, cho những kiếp người lầm than trong xã hội.

Tác giả được nhìn ngắm Bác Hồ, có một niềm xúc động sâu sắc:

Bác vẫn nằm đây, giữa thủ đô đầy nắng, giữa hàng triệu trái tim của dân tộc đang hướng về Người. Nét “dịu hiền” trên khuôn mặt người chính là tượng trưng cho những gì cao đẹp, thanh khiết nhất của một cuộc đời. Dù nỗi đau còn đó, mất mát còn đó nhưng đất nước luôn nhớ đến người.

Có lẽ khổ thơ cuối cùng người đọc sẽ bần thần trước lời nguyện ước của Viễn Phương:

Những vẫn thơ chân chất, bình dị này khiến cho người đọc “trào nước mắt”. Giây phút tác giả sắp rời xa Người trở về với miền Nam là giây phút ngưng lại nhiều cảm xúc nhất. Điệp từ “muốn” dường như nhấn mạnh hơn nữa khát khao, ước vọng của tác giả được ở cạnh Bác Hồ. Những ước muốn bình dị, mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm.

Thật vậy, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương khiến người đọc không cầm được nước mắt vì tình cảm của một người con dành cho Bác. Qua đó thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng dân quan trọng như thế nào.

……

Trong những ngày đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam sắp đến thắng lợi hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương được ra Bắc viếng lăng Bác. Trước khi chia tay, nhà thơ đã để lại một bài thơ bày tỏ niềm cảm xúc sâu xa, tình yêu thương vô hạn và lòng cảm phục, tôn kính của mình đối với Bác Hồ vĩ đại – người từng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:

Đoạn thơ mở đầu gợi ra cảnh tượng thiêng liêng, thành kính. Tác giả xưng”con”- đứa con bao năm xa cách nay mới được trở về đứng trước lăng mộ của vị cha già dân tộc. Cách xưng hô đó còn gợi lên một tình cảm ấm áp gần gũi- tình cảm trong gia đình. Tình cảm gần gũi ấm áp đó còn được thể hiện qua hình ảnh” hàng tre bát ngát” trong sương. Hàng tre quen thuộc biết bao. Từ bao đời nay tre vẫn được xem là bản lĩnh, cốt cách con người Việt Nam. Một hình ảnh thật có ý nghĩa.

Tác giả tiếp tục mạch suy tưởng khi đứng trước lăng Người:

Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên. Mặt trời soi sáng tất cả thế gian. Mặt trời thượng tượng trưng cho chân lý. Dưới ánh mặt trời, mọi vật, mọi việc đều sáng rỏ. Chỉ mặt trời đỏ mới nhìn và “thấy mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh Bác Hồ vĩ đại với trái tim rực đỏ. Trái tim ấy, mặt trời ấy mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt nam, mặt trời thiên nhiên, mặt trời vũ trụ được nhân hoá thể hiện niềm cảm phục của nhà thơ đối với sự nghiệp, con người, cuộc đời của Bác. Nhà thơ còn sáng tạo hình ảnh dòng người kết thành “tràng hoa” dâng bảy mươi chín mùa xuân để thể hiện tấm lòng nhân dân cả nước hướng về Bác.

Khi vào trong lăng tác giả lại tiếp tục suy tưởng:

Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất, Bác vẫn sống. Nằm trong lăng chỉ là giây phút nghỉ ngơi của Bác. Bác ngủ bình yên thanh thản bới Bác đã cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Bác đang nằm “giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền” chính là tấm lòng của nhân dân đối với Bác. Tác giả bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Vẫn biết Bác không bao giờ mất nhưng sự thật là sự thật! Bác đã vĩnh viễn ra đi. Cái “đau nhói trong tim” không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ mà là nỗi đau của tất cả mọi người.

Tác giả chia tay Bác trong niềm cảm xúc dâng trào:

Viễn Phương bộc lộ một cách thành thực ý nghĩ, tình cảm của mình đối với Bác. Đó là phong cách của đồng bào Nam Bộ: rõ ràng, dứt khoát. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Ước nguyện của tác giả hết sức giản dị mà sâu lắng: muốn làm con chim, muốn làm đoá hoa, muốn làm cây tre. Ước nguyện ấy thật chân thành và cảm động. Đó là sự vấn vương lưu luyến của tất cả những ai đã có dịp viếng lăng Người.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh hàng tre, kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre hiền lành, quen thuộc. Nhưng đây cũng là một lời hứa của tác giả trước an linh của Bác: luôn giữ mãi cốt cách, phẩm chất của người Việt Nam!

Viếng lăng Bác của Viễn Phương vừa giàu hình ảnh, vừa giàu trữ tình đằm thắm. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thành sâu sắc tình cảm của tác giả, của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu. Viếng lăng Bác đã được phổ nhạc trở thành một trong những bài hát được nhân dân cả nước yêu thích.

Chiến tranh qua đi đã gần được một thế kỉ, ấy vậy mà mỗi khi nhắc lại, chúng ta vẫn không khỏi đau xót trước những nỗi mất mát, trước những hi sinh của thế hệ đi trước để bảo vệ độc lập, tự do. Trong số những nỗi mất mát của chiến tranh, có sự ra đi của các anh hùng, có sự rời bỏ cuộc sống của những người nông dân áo vải…. nhưng không phải những nỗi đau của chiến tranh mới là đau đớn nhất. Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta còn phải chịu một nỗi đau vô cùng lớn, đó là sự ra đi của Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu của mỗi người dân Việt Nam. Dành cả cuộc đời để giành lấy độc lập, tự do cho đất nước, Người cũng đến lúc phải từ biệt trần thế. Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương đã thay lời mỗi con dân của Bác, nói lên nỗi đau xót, thương nhớ khôn nguôi dành cho Người.

Ta cảm nhận ở nhà thơ trước hết là tấm lòng thành kính, biết ơn của một người con chưa từng một lần được nhìn thấy Bác:

Chiến tranh kết thúc, hòa bình được lập lại ở miền Nam, năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng với đồng bào miền Nam đã có dịp được ra Hà Nội viếng Bác. Tác giả như một người con xa nhà về thăm người cha của mình. Nhà thơ bộc lộ nỗi xúc động nghẹn ngào khi chưa kịp cảm ơn, chưa kịp thể hiện tấm lòng thành kính trước công ơn của Bác mà Bác đã ra đi mất rồi. Nhà thơ sử dụng hình ảnh “hàng tre” đã nói lên hình ảnh của mỗi người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất và ngay thẳng. Ta cảm nhận được thái độ vô cùng tự hào vì là một người dân Việt Nam của tác giả. Nhà thơ cũng như bao người khác, đều biết ơn Hồ Chủ Tịch kính yêu!

Từ tấm lòng thành kính, sự biết ơn dành cho Người, tác giả còn thể hiện nỗi đau xót, xót thương trước sự ra đi của Bác:

Hình ảnh Bác đang nằm ngủ say giữa “một vầng trăng sáng dịu hiền” cho thấy tâm hồn cao đẹp, cho thấy sự hiền dịu của Người. Nhà thơ đau xót, cảm thấy mất mát vô cùng: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Động từ “nhói” cho thấy sự bật ra của cảm xúc, nhà thơ không thể kìm nén được nữa, từng cơn đau cứ quặn lên trong tim. Dù tác giả biết rằng, Bác ra đi những vẫn ở mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng nhà thơ vẫn không giấu nổi sự xúc động của mình. Phải là một người vô cùng yêu thương, kính trọng Người thì mới có thể có những cảm xúc, những nỗi đau lớn như vậy. Ta thấy ở tác giả tấm lòng đối với Bác, cũng như tấm lòng của cả miền Nam.

Nhưng xúc động nhất có lẽ là ở khổ thơ cuối, khi nhà thơ thể hiện ước muốn cháy bỏng cùng với tâm nguyện được cống hiến cho dân tộc, cho đất nước:

Những giọt nước mắt của tác giả là những giọt nước mắt của sự đau xót, của sự lưu luyến khi vừa mới tới thăm Người được một chút thôi, giờ đã phải rời xa rồi. Trở lại miền Nam là thực tại, không nỡ rời xa là ý muốn trong tâm tưởng của nhà thơ. Để quên đi thực tại đau xót này, nhà thơ đã tự nhủ với lòng mình, đã bộc lộ mong ước được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được mãi mãi ở bên Người. Điệp từ “Muốn làm” cho thấy ước muốn mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim để hót quanh lăng Bác mỗi sớm mai, muốn làm đóa hoa tô điểm thêm cho cảnh vật quanh lăng, tỏa hương thơm ngát…. và muốn làm cây tre để trung hiếu với Người:

“Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Hình ảnh cây tre được tác giả sử dụng rất khéo léo, xuất hiện ở đầu bài thơ và quay lại ở cuối bài thơ. Kết cấu này tạo ra tính biểu tượng cho hình ảnh cây tre, vừa là biểu tượng cho con người Việt Nam, vừa nói lên tấm lòng của tác giả đối với Người. Xúc động biết bao trước tình cảm của nhà thơ đối với Bác!

Là một người dân Việt Nam sống trong thời buổi hiện đại, khi chiến tranh đã kết thúc, dù ta không thể hiểu được hoàn cảnh và những khó khăn trước kia nhưng vẫn cảm thấy được công lao to lớn của Bác dành cho đất nước qua những lời thơ của nhà thơ Viễn Phương. Ông thực sự đã viết rất hay, mạch cảm xúc tự nhiên, lắng đọng theo trình tự vào thăm lăng Bác, qua đó gieo vào lòng người đọc sự xúc động, tình cảm mến yêu dành cho cả Hồ Chủ tịch và cả những người con dân miền Nam như tác giả.

Đọc bài thơ Viếng lăng Bác, ta hiểu được lí do tại sao mà bài thơ được phổ thành nhạc sau này. Đó chính là bởi vì những cảm xúc được cất lên từ tấm lòng chân thành của người viết, từ sự vĩ đại, cao cả của Bác Hồ kính yêu…

Mùa xuân năm 1975 là mùa xuân đáng nhớ nhất của đất nước ta. Sau hơn 80 năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ, quân và dân ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất hai miền Nam Bắc. Trong giây phút vẻ vang đó, đồng bào ta nhớ đến người Cha già của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân loại – Hồ Chí Minh. Bất cứ ai cũng muốn được một lần đến viếng thăm Bác, kể cho người nghe những thắng lợi mà chúng ta đạt được.

Viễn Phương, một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước, đã có dịp từ miền Nam ra Hà Nội viếng thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1976. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời, ghi lại những cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ lúc bấy giờ, đồng thời là những dòng cảm xúc của nhân dân miền Nam.

Khổ thơ đầu tiên là lời bộc bạch của nhà thơ khi đặt chân lên thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, đặt chân đến nơi Bác Hồ đang yên nghỉ:

Lời thơ bình dị là lời nhà thơ nói với Bác, “ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ toát lên sự tự hào, xúc động đang trào dâng trong lòng của người thi sĩ. Rằng đồng bào miền Nam đã đứng dậy đập tan mọi xiềng xích của bọn cướp nước và lũ bán nước. Giờ đây, những người con miền Nam đã về thăm Bác.

Cặp đại từ “con – Bác” vừa thể hiện sự kính trọng vừa gần gũi, thân thiết. Vì Hồ Chí Minh chính là người Cha của người dân Việt Nam. Biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” giúp giảm đi sự buồn thương, mất mát, tựa hồ như đây là một cuộc đoàn tụ, sum họp chan chứa yêu thương. Trong khung cảnh sương mờ của một sáng mùa thu, nhà thơ phải thốt lên khi thấy hàng tre bát ngát “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.

Bức tranh một miền quê Việt yên bình, dân giã được vẽ nên, tuyệt đẹp. Cây tre là biểu trưng cho con người, tinh thần, cốt cách con người Việt Nam. Bất cứ khi nào, bất kể ở đâu những con người ấy luôn kiên cường, bất khuất, ngay thẳng, trung trực, vượt qua mọi chông gai. Hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” như càng khẳng định thêm điều đó. Chuyến đi “thăm” lăng Bác của nhà thơ giống như một chuyến đi tìm về cội nguồn dân tộc, có truyền thống tốt đẹp, biểu tượng dân tộc luôn hiện hữu.

Trước lăng Bác không phải những gì tráng lệ, rực rỡ, chỉ là hình ảnh cây tre bình dị, thân thuộc. Hàng tre giống một đoàn vệ binh đang canh gác cho giấc ngủ của Bác, cũng là cúi chào đoàn người từ từ tiến vào lăng bằng tất cả lòng thành kính:

Viễn Phương đưa ra hai hình tượng sóng đôi giữa thực tế “mặt trời đi qua trên lăng” và hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”. Mặt trời là nguồn sáng duy nhất của Trái Đất, cung cấp nhiệt và là nguồn sống của nhân loại, đặc biệt mặt trời chỉ có một mà thôi. Vậy mà ở đây có hẳn hai mặt trời? Mặt trời còn lại chính là vị Chủ tịch kính yêu Hồ Chí Minh.

Người chính là mặt trời chân lý, mang lại ánh sáng cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người đã lãnh đạo cuộc cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuối cùng là giải phóng đất nước, thống nhất hai miền.

Câu thơ mang dáng vẻ sôi nổi, bật lên sắc “đỏ” tràn đầy sức sống, chứa chan lòng thành kính gửi đến Bác. Hai câu thơ tiếp chùng xuống, trầm mặc bộc lộ không khí của đoàn người đang tiến vào lăng. Họ đến đây mang trong mình lòng kính yêu vô bờ và nỗi tiếc thương khi Bác mất đi.

Điệp từ “ngày ngày” như khẳng định chân lý rằng tình cảm mà nhân dân gửi đến bác là vô hạn, luôn luôn tồn tại, cũng như mặt trời kia vẫn mọc – lặn đều đặn hàng ngày. Tràng hoa đó không là tràng hoa kết từ những loài hoa bình thường. Đó là tràng hoa của đời được kết thành từ dòng người vô tận dâng lên Bác. Dưới ánh sáng của Bác, những bông hoa đẹp nhất đã nở. Bác chính là nguồn sống, là mùa xuân của đất nước, con người “bảy mươi chín mùa xuân.”

Dòng người từ từ tiến vào nơi Bác năm, nơi chan hòa ánh trăng hiền dịu:

Bác đang nằm ở đó, giống như đang chìm trong giấc ngủ yên bình, thanh thản “giấc ngủ bình yên”. Lại một lần nữa nhà thơ sử dụng bút pháp nói giảm nói tránh để kìm nén lại nỗi tiếc thương trong lòng. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền tạo nên khung cảnh thơ vừa lãng mạn vừa hiện thực. Người Cha già dân tộc tỏa ra sự ấm áp, bình dị và giản đơn trong con người, cốt cách. Vầng trán Bác rộng lớn, êm đềm, mãn nguyện với những thành tựu mà nhân dân đạt được, “có cơm ăn áo mặc”, “được tự do”, “được học hành”.

Thế nhưng, đứng trước Bác, nhà thơ không thể kìm nén được sự xúc động: “nghe nhói ở trong tim”. Ngày Bác ra đi là ngày mà đồng bào ta chịu sự mất mát lớn nhất về tinh thần, tiếc thương vô cùng. Mặc dù, đó là quy luật của tạo hóa, và Bác dẫu đã mất nhưng vẫn còn sống mãi trong tâm trí, trong lòng người dân Việt “mãi mãi”.

Cuộc sum họp nào rồi cũng đến phút chia ly, đứng trước lăng Bác nghĩ đến phút xa rời, nhà thơ Viễn Phương không khỏi xúc động:

Cảm xúc dâng trào trong giây phút trở về miền Nam thật tự nhiên, xuất phát từ tình yêu gửi đến Bác: “thương trào nước mắt”. Tình thương cứ thế nghẹn ngào, hóa thành nước mắt trào dâng, không thể nào ngăn lại được. Thương nên nhà thơ càng khao khát được ở gần Bác, được hóa thân thành cảnh vật xung quanh lăng. Điệp từ “muốn” tạo âm hưởng quyết liệt, nhấn mạnh hơn nữa mong muốn trong lòng Viễn Phương.

Ông ước được làm “con chim hót quanh lăng”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu”. Nhưng có lẽ, ước mong lớn nhất chính là được tiếp tục đi theo con đường cách mạng chân lý của Bác, được làm “cây tre trung hiếu”. Cây tre đó là hóa thân của nhân cách, tâm hồn Việt, ngay thẳng, chính trực, kiên cường, trung với Đảng, hiếu với dân. Bài thơ mang âm hưởng buồn thương nhưng lại vút lên ở câu kết. Một lời hứa, lời cam kết sẽ tiếp tục cống hiến, hy sinh vì đất nước, nhân dân của nhà thơ.

Cùng với phong cách thơ chân thành, giàu cảm xúc, nền nã, thì thầm, bâng khuâng nhưng không bi lụy, Viễn Phương đã mang đến cho người đọc một chuyến viếng thăm trên dòng cảm xúc chân thật nhất. Thơ bảy chữ mang âm hưởng lãng mạn pha lẫn hiện thực, hình ảnh thơ linh hoạt cùng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa làm tăng thêm giá trị nội dung của bài thơ.

Khép lại những trang thơ, ta như thấy từng đoàn người kính cẩn, nghiêng mình vào viếng Bác mang theo hành trang là lòng kính yêu vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Cảm xúc của Viễn Phương cũng là cảm xúc của tất thảy người dân miền Nam và người dân Việt nói chung. Hy vọng rằng, sau khi học bài thơ này, các em có thể nêu suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác bằng tất cả cảm nhận chân thành nhất.

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường. Viếng lăng Bác là tác phẩm tiêu biểu của viễn Phương giai đoạn sau 1975.

Bài thơ Viếng lăng Bác được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam,nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.

Bài thơ được chia làm 4 phần tương ứng với 4 khổ thơ thể hiện mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự của một cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian. Cảm xúc bao trùm trọn vẹn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.

Cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác đã được diễn tả sâu sắc trong khổ thơ này:

Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa,. Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen.

Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.

Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người chết. “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.

Cách nói giảm, nói tránh có vai trò làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.

Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.

Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ Viễn Phương không chỉ có ý tả thực, nhà thơ đã viết hình ảnh hàng tre với bút pháp tượng trưng, biểu tượng (gợi ra một điều gì đó từ một hình ảnh ẩn dụ lớn).

Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam. Tre đại diện cho sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất trước hoàn cảnh. Nơi đâu có đất đai, nơi ấy tre đủ sức mạnh để sinh tồn.

Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam vẫn luôn đứng vững trước âm mưu xâm lược của kẻ thù. Dù có lúc tưởng chừng như bị khuất phục, bị đồng hóa nhưng bản lĩnh kiên cường, bất khuất đã đưa dân tộc đi qua gian khổ, chiến thắng kẻ thù.

Dù “bão táp mưa sa” nhưng tre vẫn “đứng thẳng hàng”. Đó là sức mạnh tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.

Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh.

Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.

Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:

Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo. Nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng, hơi ấm và ánh sáng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, là động lực của mọi sự sống.

Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo,độc đáo. Đó là hình ảnh của Bác Hồ, một nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh vĩ đại và vĩnh hằng của dân tộc. Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quang vinh, trọn vẹn. Tình yêu thương bao la của Bác tỏa hơi ấm trong lòng mỗi con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.

Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tục bất biến của tự nhiên vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của con người Việt Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác.

Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”. “Tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình. “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm.

Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”– 79 năm cuộc đời của Người. Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:

Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.

Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!

Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng. Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác.

“Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam. Lúc sinh thời, Người từng nói khi nào đất nước thống nhất, Người sẽ vào miền nam thăm đồng bào. Giờ đất nước thống nhất rồi nhưng Bác đã mãi mãi đi xa, không thực hiện được niềm mong ước ấy. nghĩ đến điều đó, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi.

Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa.

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người.

Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.

Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng.

Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.

Viếng lăng Bác thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.

Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, thể hiện cuộc sống ước mơ khát vọng của đồng bào Nam Bộ. “Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương viết vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam đầu tiên ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác, xúc động ông đã viết lên bài thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.

Trước hết khổ thơ đầu của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc sáng sớm. Sau hơn hai mươi năm xa cách, người con miền Nam mới được về thăm Bác, bao nỗi xúc động nghẹn ngào:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Câu thơ giản dị tự nhiên như một lời thông báo mà chứa chan tình cảm thân thương. Nhà thơ xưng “con” gọi “Bác”- cách xưng hô quen thuộc của nhân dân ta với vị lãnh tụ vừa gần gũi vừa thành kính. Đặc biệt đối với Viễn Phương còn mang theo bao tình cảm nỗi nhớ thương của miền Nam trong trái tim Bác. Tác giả không nói “ra viếng” mà là “ra thăm”- như đứa con đi xa giờ mới được về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ có gì ngậm ngùi.

Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét của nhà thơ về cảnh quan bên lăng là hình ảnh “hàng tre bát ngát”:

Hình ảnh hàng tre được miêu tả từ xa đến gần gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng: cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam kiên cường bất khuất “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hình ảnh “hàng tre bát ngát quanh lăng” trong cái nhìn xúc động của nhà thơ như hình ảnh nhân dân Việt Nam, cháu con đang quây quần tụ hội bên Bác, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Ra thăm lăng Bác – một nơi trang nghiêm thành kính, người con miền Nam lại bắt gặp hình ảnh rất quen thuộc của làng quê, của đất nước. Thán từ “ôi” đã thể hiện niềm xúc động nghẹn ngào và cả sự ngạc nhiên bất ngờ của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc mặt trời lên. Mặt trời lên cao dần, hình ảnh mặt trời gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng:

Hai câu thơ rực sáng hình ảnh mặt trời: mặt trời của thiên nhiên theo quy luật vận động vũ trụ “ngày ngày đi qua trên lăng”- thấy một mặt trời khác “mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng rất đỏ là hình ảnh ẩn dụ chỉ về Bác Hồ: nếu như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, sự sống cho vạn vật thì mặt trời Bác đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta. Mặt trời ấy rất đỏ như nhiệt huyết cách mạng, như trái tim yêu thương của Người. Đặt mặt trời Bác sóng đôi trường tồn với mặt trời thiên nhiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn thể hiện lòng ngưỡng mộ ngợi ca sự bất tử của Người.

Chứng kiến dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác trong lòng nhà thơ trào dâng bao xúc động:

Cấu trúc “ngày ngày… đi” được lặp lại khẳng định quy luật tất yếu: còn mặt trời đi qua trên lăng thì còn dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác. Xếp hàng vào lăng viếng Bác đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong đời sống nhân dân ta. Dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác được liên tưởng như “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh ẩn dụ đẹp giàu ý nghĩa bởi mỗi người vào lăng viếng Bác đều mang theo bao tình cảm, nỗi biết ơn người Cha già. Mỗi người là bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác với bao thương nhớ biết ơn. Hình ảnh ẩn dụ ” bảy mươi chín mùa xuân” khẳng định cuộc đời Bác mãi là những mùa xuân vĩnh hằng của dân tộc.

Sang đến khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng viếng Bác. Biết bao xúc động trào dâng khi người con miền Nam lần đầu được đối diện với Bác. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ hình ảnh Bác nằm trong lăng hiện ra thật đẹp:

Cả không gian thời gian như ngưng đọng trước hình ảnh có tính chất vĩnh hằng: Bác đang nằm ngủ một giấc ngủ bình yên thanh thản dưới ánh sáng dịu nhẹ của vầng trăng. Gam màu của đoạn thơ không còn chói lọi rực rỡ mà chuyển sang dịu nhẹ phù hợp với không khí tĩnh lặng trong lăng, vầng trăng như đang nâng niu giấc ngủ của Người. Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng” vừa gợi tâm hồn sáng trong thanh cao của Bác vừa gợi những vần thơ đầy trăng của Người.

Niềm xúc động nỗi xót đau của người con miền Nam được thể hiện thật cảm động trong hai câu thơ sau:

Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” cũng giống như “mặt trời” ,”vầng trăng”- gợi cái vĩ đại, bất tử của Bác. Trong tâm tưởng của mỗi người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước như trời xanh kia còn mãi. Người đã hóa vào thiên nhiên đất nước núi rừng sự nghiệp của Người mãi là bất tử. Dù vẫn vững tin như thế nhưng trở lại thực tế khi người con miền Nam xa xôi về đến bên Bác thì Bác không còn nữa, nỗi xót đau không gì bù đắp nổi “nghe nhói ở trong tim”. Kết cấu “vẫn biết…mà sao” tưởng như đối lập nhau mà lại hài hòa, thống nhất với nhau trong cảm xúc của người con miền Nam khi lần đầu đối diện với Bác.

Khổ thơ cuối kết thúc bài thơ đã thể hiện ước nguyện của nhà thơ khi nghĩ đến mai về miền Nam. Niềm xúc động trào dâng khi nhà thơ nghĩ đến mai về miền Nam:

“Mai về miền nam thương trào nước mắt”

Câu thơ có cách diễn đạt mộc mạc mà đằm thắm của người Nam Bộ: mai về có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy nhớ thấy thương thấy lưu luyến “thương trào nước mắt”.

Tình cảm ấy đã chắp cánh cho những ước nguyện được hóa thân vào những cảnh vật ở quanh lăng Bác để mãi được ở bên Bác không rời xa:

Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, muốn làm đóa hoa tỏa hương thơm ngát bên lăng, muốn làm cây tre trung hiếu hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Những ước nguyện ấy thật nhỏ bé mà thật đẹp bởi đều là những ước nguyện dâng hiến cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” tạo nhịp thơ dồn dập nhấn mạnh những ước nguyện thiết tha chân thành của nhà thơ. Đặc biệt kết thúc bài thơ ta bắt gặp hình ảnh “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh cây tre được lặp lại ở khổ thơ đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng làm trọn vẹn cho mạch cảm xúc của nhà thơ. Nhà thơ muốn hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Hình ảnh ẩn dụ “cây tre trung hiếu” hay tấm lòng của người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam một lòng trung hiếu với bác nguyện đi theo con đường mà Bác đã chọn.

Bài thơ đã rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tám chữ đan xen những dòng bảy chữ, chín chữ phù hợp với nội dung cảm xúc. Giọng điệu bài thơ vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, phù hợp với tâm trạng cảm xúc khi vào lăng viếng Bác. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt trong bài thơ có nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp gợi sự suy ngẫm sâu xa: “mặt trời”, “trời xanh”, ” tràng hoa”. Với những nét đặc sắc nghệ thuật ấy, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. “Viếng lăng Bác” là nén tâm hương mà người con miền Nam thành kính dâng lên bác kính yêu. Cùng với “Trường ca theo chân Bác” của Tố Hữu, “Hoa trước lăng Người” của Chế Lan Viên,… “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương đã góp phần làm phong phú đề tài Bác Hồ trong thơ ca hiện đại. Ngay từ khi ra đời bài thơ đã được khẳng định và trở thành tiếng lòng chung của mỗi người con Việt Nam đối với Bác. “Viếng lăng Bác” là một trong những thành công sớm nhất viết về Người sau ngày Bác đã đi xa.

Như vậy với thể thơ tám chữ giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng chung của riêng nhà thơ mà còn là tiếng lòng chung của tất cả mọi người đối với Bác. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.

….

Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh (Sơ Đồ Tư Duy) Dàn Ý &Amp; 22 Bài Cảm Nhận Sang Thu Hay Nhất

Khoảnh khắc giao mùa chính là khoảnh khắc đẹp nhất của tự nhiên, gieo vào lòng người những rung động khó tả, như giao hòa vào với vạn vật. Cho tiết mời các em cùng theo dõi bài viết để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Sang thu

Dàn ý cảm nhận về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

Cảm nhận Sang thu ngắn gọn

Cảm nhận về bài thơ sang thu

Cảm nhận bài thơ Sang thu hay

Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu

Cảm nhận bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (16 mẫu)

Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Sang thu

Cảm nhận Sang thu chi tiết nhất

I. Mở bài:

Giới thiệu được bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh và nêu cảm nhận, ý kiến khái quát

II. Thân bài:

* Khổ 1:

– Những cảm nhận tinh tế bất ngờ: Không có lá rụng của thơ xưa, không có màu vàng như trong “Thơ mới”, tác giả cảm nhận mùa thu rất riêng, rất mới, bằng sự rung động tinh tế.

Tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng qua các từ “bỗng”, “hình như”.

* Khổ 2:

Từ cảm nhận của các giác quan, cảm xúc của tác giả về mùa thu dần hòa vào cảnh vật chung quanh.

Sự vật ở thời điểm giao mùa hạ – thu đã bắt đầu chuyển đổi: sông “dềnh dàng” – chim “bắt đầu vội vã”, đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”.

Hai khổ thơ đầu, các từ ngữ “chùng chình”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt nửa mình” vốn là những từ ngữ dùng để chỉ trạng thái, tính chất của người được tác giả dùng để chỉ miêu tả thiên nhiên, vì thế cảnh vật trở nên sống động có hồn.

* Khổ 3:

Cảm nhận về thời điểm giao mùa dần đi vào lý trí.

Hai dòng thơ cuối bài cần hiểu với hai tầng nghĩa: Hình ảnh tả thực “mưa, nắng, sấm” nhưng gợi cho ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống.

* Tóm lại

Nghệ thuật: Bài thơ hấp dẫn bởi những từ ngữ gợi cảm, gợi nhiều về cảnh về tình. Nhân hóa làm cho cảnh vật có hồn, gần gũi với cuộc sống.

Nội dung: tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.

III. Kết bài:

Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung bài thơ.

Nêu cảm xúc khái quát.

Thu là thơ của đất trời, là “bình minh mát” của lòng người (Xuân Diệu). Viết về thu, đã có bao áng thơ hay tuyệt tác nhưng có lẽ chỉ khi đến với Hữu Thỉnh, ta mới có thể cảm nhận được phần nào cái “cốt tủy chung tình bên trong” của nó. Tất cả mọi vẻ đẹp ở “bề sau, bề sâu, bề xa” của mùa thu đều được gửi gắm qua bài thơ “Sang thu”- tác phẩm mà có lẽ đến mãi sau này, ta vẫn không thể ngừng thương nhớ.

Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sớm gần gũi với thiên nhiên cây cỏ, thơ ông được thừa hưởng cái dạt dào trong cảm xúc về quê hương, đất nước và con người. Ngòi bút của ông rất bắt nhạy với những gì mong manh nhẹ nhàng tưởng như khó nắm bắt nhất. Đó là lí do vì sao khi cảm xúc chợt tìm đến thi nhân, trong cái tiết hanh hanh của thu mới, của hạ cũ, nhà thơ không thể kìm lòng được mà phải cầm bút viết bài thơ “Sang thu” (1977). Đó được coi như những dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh tế trước thiên nhiên giao mùa, cũng là nơi gửi gắm biết bao chiêm nghiệm kín đáo về mùa thu mới của cuộc đời, của con người và dân tộc.

“Từ Homero đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam”, thu vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân. Riêng trong làng thơ Việt, ta đã không ít lần bắt gặp một mùa “Thu điếu” trong thơ Nguyễn Bính, một “Tiếng thu” trong thơ Lưu Trọng Lư, một “Thơ duyên” trong thơ Xuân Diệu…. Và mùa thu trong Hữu Thỉnh là mùa đáng nhớ nhất, ấn tượng nhất với những chuyển biến tế vi từ cuối hạ sang đầu thu. Chính việc lựa chọn thời điểm độc đáo ấy đã khiến cho người đọc cảm nhận rõ ràng sự vận động, luân chuyển của thời gian, không gian tạo vật. Càng đọc, ta càng cảm phục hơn trước cái tài thâu tóm của nhà thơ.

Đến với khổ thơ đầu, ta như được hòa mình trong bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của làng quê Việt Nam thật sống động:

Câu thơ mở đầu với cụm từ “bỗng nhận ra” diễn tả thật chính xác cảm xúc ngỡ ngàng, thú vị trước sự đổi thay đột ngột của thiên nhiên cảnh vật. Điều đầu tiên cuốn hút tôi là chi tiết “hương ổi”, một chi tiết khá mới mẻ và độc đáo đối với thơ ca thời bấy giờ. Nếu như người xưa thấy thu qua “ngô đồng nhất diệp lạc”, thi sĩ Xuân Diệu đón chào thu bằng hình ảnh “rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” (Đây mùa thu tới), vị Tam Nguyên Yên Đổ yêu thu từ chiếc “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu), Lưu Trọng Lư gửi gắm thu trong “con nai vàng ngơ ngác” (Tiếng thu), thì Hữu Thỉnh lại lựa chọn “hương ổi”. Ông tâm sự: “giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… “. Hóa ra đó là mùi hương quen thuộc, dân dã, mộc mạc luôn vấn vương mãi trong tâm hồn người con yêu xứ, mùi hương của tuổi thơ, của tiếng cười, của bình yên và hạnh phúc. Điều đặc biệt ở chỗ hương thơm ấy không những nồng nàn, đậm đặc mà cũng như thấm thoát, dìu dịu, thoang thoảng, lan tỏa khắp không gian đất trời. Điều đó thể hiện rõ nhất ở động từ “phả”. đây cũng được coi như một thành công nghệ thuật của bài.

“Trong cái không gian đậm mùi thu ấy, thấp thoáng hình ảnh Sương chùng chình” nhẹ lướt qua đường, qua thôn xóm, tựa như bóng dáng một thiếu nữ yểu điệu, thướt tha, nhẹ nhàng lướt qua đánh thức tâm hồn thi nhân. Chỉ với hai hình ảnh “hương ổi” và “sương” giàu giá trị gợi hình gợi cảm, tác giả như vẽ ra trước mắt ta một mùa thu đặc trưng của mỗi làng quê Việt Nam trong cái tiết trời se se, mát mẻ, dễ chịu, gợi trong lòng người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến lạ lùng.

Câu thơ thứ tư không còn là bức tranh thiên nhiên nữa mà đó đã trở thành bức tranh tâm cảnh, bức tranh của lòng người: “Hình như thu đã về”. Tôi nhớ người chàng thi sĩ “sẵn sàng ân ái” Xuân Diệu khi nói về thu có lần từng thốt lên rằng: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Câu thơ reo lên như có gì vừa vui mừng, háo hức, vừa như chồng chất thêm cả niềm lo sợ, tiếc nuối thời gian. Ở Hữu Thỉnh, ta lại bắt gặp một sự hoài nghi, lưỡng lự, một điều gì đó chưa rõ ràng trong cảm xúc. Phải chăng thiên nhiên chưa đủ làm nên một mùa thu trọn vẹn hay chính tâm hồn thi sĩ chưa kịp sẵn sàng để đón chào sự đổi thay của tạo vật? Tác giả đã cảm nhận mùa thu bằng rất nhiều giác quan khác nhau. Từng câu từng tiếng thoát ra đều thể hiện rõ sự tinh tế, sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm cuộc sống.

Thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ tiếp tục được mở rộng với bức tranh thu tuyệt tác:

Hình ảnh đầu tiên hé lộ với dòng sông “dềnh dàng” thong thả, lững lờ trôi. Gợi ra trong ta cảm giác về một mùa thu êm đềm, chảy trôi như tam thế của một “người khách bộ hành phiêu lãng” (Thế Lữ), đang thư thái vừa đi vừa ngắm cảnh đôi bờ. Trên trời, mấy cánh chim đã “vội vã” bay về Nam tránh rét. Hữu Thỉnh thật tinh tế khi sử dụng cụm từ “được lúc” và “dềnh dàng”, có nghĩa chỉ đến mùa thu, mọi vật mới biến đổi như thế. Đó là những thay đổi, biến chuyển của thiên nhiên trong giây phút giao mùa.

Đặc biệt gây sự chú ý cho độc giả là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”. Cố nhiên, đây không phải hình ảnh tả thực. Câu thơ đọc lên tưởng chừng như vô lý nhưng lại ẩn chứa cái có lý của cảm xúc. Hình ảnh đám mây độc đáo bắc ngang qua mùa hạ và mùa thu chính là phản chiếu của tâm hồn thi nhân: Thu đã đến thật rồi, nhanh và vội vã quá. Chỉ còn đây tâm hồn nhà thơ đang ngập ngừng, bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo thời gian, níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Bước chân thi sĩ đã gần chạm đến mùa thu mà trong lòng vẫn vấn vương chút nắng hạ. Là gì đây nếu không phải trái tim chan chứa yêu thương, gắn bó với cuộc sống này?

Không chỉ tinh tế trong cách sử dụng từ ngữ, cách lựa chọn hình ảnh mà còn thấy ở Hữu Thỉnh một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu và sự gắn bó thiết tha với quê hương đất nước. Chính bởi lẽ đó, bức tranh “sang thu” mới hiện lên thật sống động và có hồn đến vậy.

Nếu như hai khổ thơ đầu nghiêng về mùa thu của đất trời thì đến khổ thơ kết, tác giả lại hướng chúng ta về một mùa thu của lòng người với những trải nghiệm của chính bản thân mình.

Vẫn là những hình ảnh thiên nhiên của mùa hạ với nắng, mưa, sấm. Nhưng cách diễn tả của nhà thơ thật tinh tế: Nắng vẫn còn nhưng không rực rỡ, chói chang. Mưa vẫn còn nhưng không ào ạt. Sấm vẫn còn nhưng không dữ dội. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như vẫn còn chì có điều tất cả đã vơi dần, vơi bất ngờ, vơi vội vã. Hình ảnh ấy rất phù hợp với không khí thời điểm giao mùa. Hạ chưa hết mà thu đang qua. Mùa nọ nối tiếp mùa kia, góp vào cuộc đời chung khúc giao hưởng ý nghĩa. Bên cạnh đó, ta còn ấn tượng hơn với tầng lớp ẩn dụ đằng sau câu chữ, gợi liên tưởng về những tác động của ngoại cảnh đến con người. “Hàng cây đứng tuổi” hay cũng chính là những con người đang bước vào tuổi trung niên, những con người đã bước qua tuổi trẻ- cái thời vàng son sôi nổi, cái thời mà con người ta có quyền phung phí những ước mơ, hoài bão. Giờ đây, đối với những người dày dặn kinh nghiệm trong phong ba bão táp của cuộc sống, mọi thứ đã trở nên điềm tĩnh và vững vàng hơn, trước thời cuộc, trước sự thách thức của khó khăn và sự đổi thay của xã hội.

Ý thơ nhẹ nhàng mà thấm thía, chất chứa bao suy ngẫm của thi nhân về cuộc sống đã chạm vào sợi dây đồng cảm của mỗi chúng ta. “Thơ đi từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả”, và Hữu Thỉnh đã làm được điều đó. Bài thơ cho ta hiểu thêm và trân trọng hơn dòng tâm sự của những thế hệ đã qua, đặc biệt là tâm sự thầm kín mà chân thành nhất từ trái tim người nghệ sĩ.

Hemingway từng nói, đại ý: Một tác phẩm hay là một tác phẩm tuân theo nguyên lý “tảng băng trôi” một phần chìm, bảy phần nổi. Tôi cho rằng “Sang thu” chính là một thi phẩm như thế. Chỉ với ba khổ thơ ngắn ngủi, khiêm nhường, nhà thơ đã thực sự mang đến cho người đọc những cảm xúc rất riêng. Bài thơ kết cấu rõ ràng, mạch lạc, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, hình ảnh thơ chân thực, đa nghĩa, giọng điệu với những trạng thái biến chuyển tinh vi, sâu sắc, không chỉ khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên mùa thu tiêu biểu của làng quê Việt Nam mà còn lắng lại trong tâm trí chúng ta một mùa thu của cuộc đời cùng những tâm tư thật xúc động.

Xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa luân chuyển. Cùng với sự phát triển không ngừng, văn học bao giờ cũng đặt ra một chuẩn mực mới. Nhưng có lẽ “Sang thu” của Hữu Thỉnh vẫn sẽ còn đủ sức vượt qua “mọi sự băng hoại của thời gian”, sẽ còn sống mãi với muôn đời, góp vào cuộc sống chung những cảm xúc vấn vương về thiên nhiên, quê hương, đất nước, cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Có lẽ điều tuyệt vời nhất đối với tôi mà thiên nhiên mang lại là vẻ đẹp trong khoảnh khắc chuyển giao hai mùa. Những cảnh vật tự nhiên, tươi mới, trong xanh của đất trời luôn là một đề tài mà nhà thơ nào cũng đều muốn đem vào trong đứa con tâm hồn của mình, “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ đã thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước những biến đổi của thiên nhiên ở thời khắc giao mùa từ hạ sang thu:

Bài thơ được Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977 (sau ngày giải phóng đất nước 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ được in lần đầu ở báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (xuất bản năm 1991).

Nếu như khổ thơ đầu, không gian thu được co hẹp trong một không gian rất gần và hẹp thì tới khổ hai, không gian thu đã được mở rộng về biên độ với tầm nhìn cao và xa hơn, từ mặt đất lên bầu trời:

Bằng biện pháp nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”, tác giả đã hóa một dòng sông vốn không tri không giác trở thành một dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản sau những ngày hè nước lũ, gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Dòng sông không còn cuồn cuộn, gấp gáp chảy trước những cơn mưa lũ của mùa hạ nữa mà thay vào đó, nó trở nên lắng lại, từ từ, nhẹ nhàng. Trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông mùa thu thì tiếp đến tác giả đã đưa ta hòa cùng trạng thái “vội vã” của những cánh chim chiều đang dần bay đi tránh rét khi chúng bắt đầu cảm nhận cái se se lạnh của trời đầu thu. Nghệ thuật đối lập ở hai câu thơ đầu tạo nên hình ảnh thơ thật đẹp, giàu tính chất tạo hình, đồng thời làm cho không gian trở nên rộng mở hơn, khoáng đãng hơn.

Vẫn là sấm, mưa, nắng, những hiện tượng thời tiết của mùa hè nhưng trong khoảnh khắc giao mùa này đã có sự đổi thay về mức độ. Với cách chuyển đổi ấy, tác giả đã hóa cái nắng gay gắt của mùa xuân sang cái nắng êm dịu, nhẹ nhàng của những ngày đầu thu. Những cơn mưa rào cứ đến rồi cứ đi cũng đã ngày càng vơi dần. Tác giả dùng từ “vơi” có giá trị gợi tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ. Tất cả đều chầm chậm, từ từ, không vội vã, không hối hả. Những từ như “vẫn còn”, “vơi dần”, “cũng bớt” đã có tác dụng diễn tả những cái thời tiết tự nhiên đó đã giảm đi về mức độ và cường độ khi trời đất đang giao mùa cuối hạ, đầu thu rất nhẹ nhàng, khó nhận biết. Thế nhưng,với một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, nhà thơ đã phát hiện ra sự chuyển biến đó của thiên nhiên, vũ trụ. Cái hình ảnh “ sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi” được Hữu Thỉnh viết ra theo hai tầng nghĩa. Trước hết mang ý nghĩa tả thực thì cái hình tượng sấm vốn đi liền với những cơn mưa xuất hiện một cách bất ngờ chỉ có ở mùa hạ đã được giảm đi khi bước dần sang mùa thu ấm áp. Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa hạ. Nhưng khi đi qua tới nghĩa ẩn dụ của câu thì hàng cây đứng tuổi ở đây lại biểu thị cho những con người đã trải qua biết bao khó khăn, thăng trầm của đời người mà dần trở nên vững vàng hơn. Cái gọi là thời gian cũng đang chầm chậm mà đi qua, cảm xúc tiếc nuối của con người trước cái vẻ đẹp mà thiên nhiên mang lại cũng được nguôi ngoai đi phần nào.

Bài thơ được viết theo thể năm chữ, hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi, ngôn ngữ trong sáng, giàu sức biểu cảm đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật và sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân trước thiên nhiên, vũ trụ đất trời khi bắt đầu sang thu.

Gấp lại tác phẩm “Sang thu” của nhà thi sĩ tài ba- Hữu Thỉnh, cái dư âm của bài thơ vẫn còn đọng lại đâu đó trong tôi một cảm xúc khó tả không thể nói thành lời mà có lẽ trước khi đọc qua sẽ không tài nào có thể liên tưởng đến được. Vẻ đẹp cuối hạ – đầu thu của thiên nhiên được ông khắc họa một cách rõ nét và có lẽ bất kì một độc giả nào cũng không thể nào quên.

Mùa thu mang đến cho con người rất nhiều cảm xúc khác nhau. Nó mang đến nguồn cảm hứng khiến cho các tác giả muốn được sáng tác, muốn được thể hiện và giải tỏa cảm xúc của mình thông qua các tác phẩm. Mỗi người sẽ có một cách thể hiện khác nhau tùy thuộc theo sự cảm nhận của họ về mùa thu. Với các nhà thơ, họ tả mùa thu một cách chân thực nhưng cũng cực kì sinh động. Viết về mùa thu, phần lớn các tác giả miêu tả nét đẹp trong thu. Riêng với Hữu Thỉnh, ông tả mùa thu vào cái khoảnh khắc giao mùa chuyển từ hè sang thu. Đó là khoảnh khắc mà không phải ai cũng có thể cảm nhận được.

Nội dung bài thơ cho thấy những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi của thiên nhiên. Khoảnh khắc thiên nhiên giao mùa mỗi mùa mỗi khác. Nó cũng chẳng giống như đồng hồ điểm chuông từng giờ để con người có thể nhận biết. Nó là sự cảm nhận tinh tế của từng người. Có lẽ, chỉ có những người lãng mạn, tâm hồn bay bổng mới có thể có được cái nhìn tinh tế như vậy. Hữu Thỉnh đã cảm nhận mùa thu không phải ở sắc mơ phai cũng không phải ở hình ảnh con nai vàng ngơ ngác mà là ở hương ổi, một hương vị thân quen và rất đặc trưng của mùa thu miền Bắc:

Hai chữ hương ổi như khiến người đọc cảm giác đâu đây có mùi hương của những quả ổi chín. Mùa thu miền Bắc là mùa nở rộ của ổi. Ở những miền quê bình dị, cây ổi được trồng ở khắp nơi với nhiều giống ổi khác nhau. Đó là mùi hương của quê nhà mộc mạc. Chúng phả vào trong gió, thoảng bay trong không gian. Thứ hương thơm không ngào ngạt như hương hoa nhưng đủ khiến lòng người sâu nặng. Nó khiến cho nhà thơ bỗng nhận ra. Nó mang đến một sự bất ngờ mà có lẽ nhà thơ cũng đã chờ đợi từ lâu. Không chỉ tả, câu thơ còn gợi lên sự liên tưởng về màu vàng ươm của những quả bưởi chín, về vị giòn ngọt và về hương thơm của những quả bưởi. Chưa hết, sương thu cũng như chứa đầy tâm trạng. Chúng thong thả đi qua từng ngõ ngách của thôn quê. Mùa thu miền Bắc sương giăng kín lối về:

Nhà thơ đã nhân hóa sương thu khiến cho chúng có những bước đi chậm chạp để hiện đúng cái chất của mùa thu. Trong câu thơ đầu tiên, nhà thơ bỗng nhận ra thu về khá bất ngờ và đột ngột nhưng sang đến câu thơ thứ hai nhà thơ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Nhà thơ đã nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Tiếp đến, bức tranh mùa thu được mở rộng hơn ở không gian nghệ thuật. Cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi, nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Hai chữ dềnh dàng thể hiện được một con sông đầy nước. Dòng nước đang nhẹ trôi như cố tình chậm lại. Trên bầu trời, những đàn chim đang vội vã bay về phương nam. Nhà thơ đã mở ra một không gian thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị:

Đọc câu thơ lên, người đọc dễ hình dung, liên tưởng đến đám mây mỏng nhẹ, trắng xốm đang kéo dài như một chiếc khăn voan mềm mại của người thiếu nữ. Một nửa của chúng đã bước sang mùa thu. Một nửa của chúng vẫn còn đang là mùa hạ. Không chỉ tạo hình không gian, câu thơ còn diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm rất dịu nhẹ. Dường như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới.

Sự biến chuyển của không gian được diễn tả rõ hơn ở khổ thơ thứ ba nhưng đây cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật và đất trời:

Mùa hạ vẫn còn vương vấn đâu đây qua nắng, mưa, sấm, chớp nhưng chỉ là vẫn còn một chút bởi vì chúng đã vơi dần nên tác giả không còn quá bất ngờ với những điều ấy nữa. Trong câu thơ có gợi lên sự liên tưởng đến con người khi tuổi đã nhiều, đã có sự từng trải thì lúc ấy những dông gió, thăng trầm của cuộc đời không làm con người ta bất ngờ nữa. Với những suy tư ấy, bài thơ Sang thu dường như có giá trị hơn. Nó không đơn thuần là một bài thơ miêu tả cảnh thu mà nó đã trở nên vô cùng ý nghĩa.

Mặc dù một năm có 4 mùa nhưng dường như mùa Thu được các nhà thơ ưu ai hơn cả khi có rất nhiều bài thơ hay về nó. Chẳng hạn như nhà thơ Nguyễn Khuyến có một chùm thơ viết về mùa thu là Thu vịnh, Thu ẩm, Thu điếu. Trong văn học Việt Nam hiện đại, các nhà thơ cũng tiếp tục lấy mùa thu làm đề tài chính cho các sáng tác của mình. Điển hình như nhà thơ Hữu Thỉnh có bài thơ Sang thu vô cùng độc đáo.

Có thể nói, thời điểm chuyển giao giữa mùa này sang mùa khác bao giờ cũng làm cho con người ta có những cảm xúc lắng đọng. Đó vừa là sự háo hức chào đón cái mới, vừa là sự nuối tiếc dành cho những cái đã qua. Với sự chuyển biến của thiên nhiên, con người bao giờ cũng có sự ngỡ ngàng, sự bâng khuâng.

Có một điều đặc biệt của thiên nhiên là chúng ta không thể nào biết chính xác khi nào thì một mùa mới tới. Vào giây phút chuyển giao giữa mùa hè sang mùa thu, con người chỉ có thể cảm nhận bằng các giác quan của bản thân mình. Nếu như nhà thơ Lưu Trọng Lư cảm nhận mùa thu qua thính giác với hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô” thì nhà thơ Hữu Thỉnh lại cảm nhận mùa thu thông qua khứu giác.

Cây ổi, một loại cây ăn quả được trồng nhiều ở khắp các làng quê Việt Nam. Cứ đến mùa thu là cây ổi đơm hoa. Hương thơm của ổi không ngào ngạt như những loài hoa khác và phải tinh tế lắm mới có thể cảm nhận được hương ổi trong gió. Phó từ “bỗng” vừa cho ta cảm giác ngỡ ngàng, vừa cho thấy tác giả như đã chờ đợi để được ngửi thấy hương ổi từ lâu. Câu thơ không chỉ miêu tả đơn thuần về cảm nhận của tác giả khi mùa thu về mà còn khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh những quả ổi chín vàng ươm trên cây. Dường như người đọc cũng có thể ngửi thấy hương ổi như tác giả. Không chỉ có tác giả mà sương thu cũng chứa đầy tâm trạng. Sương thong thả len lỏi ở khắp mọi nơi và trong cả các con ngõ nhỏ. Lúc này, tác giả mới thốt lên một câu nghi vấn:

Từ “chùng chình” thể hiện bước đi của sương. Có thể thấy, sương thu đã được nhân hóa lên giống như con người. Nhà thơ nhìn thấy rõ, cảm nhận được rõ nét sự thay đổi của thời tiết. Biết được rằng mùa thu đã về nhưng làm không dám khẳng định. Từ “hình như” cho người đọc cảm giác mơ hồ, bâng khuâng giống như đang ở một thế giới thần tiên nào đó và chẳng dám tin đây lại là sự thật.

Thế nhưng đến những câu thơ tiếp theo, sự chuyển biến của mùa thu đã trở nên rõ nét hơn. Tác giả không chỉ cảm nhận bằng khứu giác nữa mà đã nhìn thấy rõ nét thông qua thị giác:

Hai câu thơ tạo nên hai hình ảnh đối lập của tự nhiên. Bên dưới lại sông nước êm đềm, mềm mại dường như đang cố tình trôi thật chậm. Trên trời, những đàn chim đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc di chuyển đường dài về phương nam tránh rét. Cảnh tượng ấy mới thật thi vị biết bao. Nhưng đẹp hơn cả vẫn là hình ảnh:

Câu thơ cho người đọc thấy rõ được sự chuyển mình từ mùa hạ sang mùa thu của thiên nhiên. Nhưng trên thực tế, mây mùa hạ và mây mùa thu thì có khác gì nhau? Câu thơ của tác giả dường như đã vẽ ra được một ranh giới trên bầu trời. Đám mây mùa hạ kia đang di chuyển qua ranh giới ấy để bước vào mùa thu. Một sự liên tưởng thật tuyệt vời. Mùa thu ấy chỉ vừa mới bắt đầu thôi. Vì vậy mà những sự vật, hiện tượng của mùa hạ vẫn còn sót lại nhưng cũng “đã vơi dần”:

Những câu thơ cuối của tác giả không chỉ đơn thuần là miêu tả thiên nhiên nhiên nữa mà nó còn chứa đựng cả những tâm tư trong lòng ông. Hữu Thỉnh chỉ ra cho chúng ta thấy rằng những người lớn tuổi đã trải qua rất nhiều thăng trầm trong cuộc sống nên đứng trướng sóng gió của cuộc đời họ không còn bất ngờ nữa. Cũng giống như những hàng cây đứng tuổi kia, sấm cũng đã “bớt bất ngờ”.

Sang thu của Hữu Thỉnh chỉ vỏn vẹn với 12 câu thơ năm chữ, nhưng nó đã vẽ nên một bức tranh đầu thu tinh tế, đẹp đẽ với sự biến chuyển nhẹ nhàng, giao cảm của đất trời khoảnh khắc giao mùa.

Bằng những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của mình, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra tín hiệu giao mùa qua hương ổi chín thoảng qua trong làn gió se lạnh:

Hương ổi chín là một mùi hương đặc biệt quen thuộc ở vùng nông thôn Việt Nam. Dường như chính tác giả cũng ngỡ ngàng khi phát hiện sự biến đổi của đất trời lúc sang thu. Từ “bỗng” đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất ngờ khi một mùi hương vốn dĩ quen thuộc mà lại có lúc bị bỏ quên. Mãi đến khi chớm sang thu, người ta mới có cơ hội tận hưởng từng chút hương vị thân thuộc của làng quê.

Tác giả sử dụng từ “phả” – sự bốc mạnh và tỏa ra thành luồng – để gợi nên sự liên tưởng cho người đọc về hương thơm nồng nàn tỏa ra từ những vườn ổi chín nơi vườn quê Bắc Bộ. Lúc này, làn gió đầu thu mang theo chút se lạnh càng làm nổi bật hương thơm ổi thêm nồng nàn. Đó là một mùi hương rất đổi quen thuộc với người Việt mà xa lạ với thi ca, nhưng lại được Hữu Thỉnh đưa vào ý thơ một cách vô cùng tự nhiên.

Sau làn gió se lạnh mang theo mùi hương ổi chín nồng nàn là làn sương mỏng đang chuyển động nhẹ nhàng khắp xóm nhỏ:

Làn sương mỏng được miêu tả với hai từ “chùng chình” như đang lan dần đến một cách chầm chậm theo nhịp thở của mùa thu. Có lẽ, chính sự xuất hiện của mùi hương ổi chính cùng làn sương mỏng đã khiến tác giả phải ngỡ ngàng, ngạc nhiên và bâng khuâng. Từ “hình như” chính là một sự phỏng đoán mơ hồ của tác giả trước một vài tín hiệu sang thu của vạn vật. Để cảm nhận bức tranh mùa thu tuyệt đẹp đó, nhà thơ đã dùng tất cả giác quan và sự rung động tinh tế của mình:

Tác giả đã có sự chuyển đổi tầm nhìn từ trong vườn ra ngoài ngõ, rồi mở rộng không gian bao la bên ngoài với dòng sông, bầu trời rộng lớn và khép lại bằng sự suy ngẫm về triết lý, giá trị sống trong cuộc đời. Những sự vật xuất hiện trong bài thơ đều miêu tả cảnh vạn vật đang chuyển dần sang thu một cách ngập ngừng. Dòng sông phải chăng đang cố ý trôi một cách chậm chạp, nhẹ nhàng để tận hưởng sự yên bình của mùa thu.

Trái ngược với trạng thái tận hưởng ấy là những cánh chim đang vội vã làm tổ, tha mồi để chuẩn bị đối phó với mùa đông khắc nghiệt. Sự trái chiều ấy chính là quy luật tự nhiên không đồng đều trong thời điểm giao thoa của muôn loài. Đồng thời, nó cũng là tâm trạng của con người khi đứng trước sự thay đổi của cuộc sống.

Đây là hình ảnh rất độc đáo được thể hiện qua cảm nhận tinh tế của tác giả. Mùa hạ mùa thu đang ở hai đầu bến và đám mây phải chăng chính là nhịp cầu ô thước vắt qua. Qua đó, nhà thơ đã sử dụng không gian để miêu tả chuyển động của thời gian. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh thơ ấy là một thoáng bâng khuâng trong tâm trạng của Hữu Thỉnh.

Nếu tinh tế, người đọc có thể cảm nhận được âm điệu có phần trầm lắng trong sự sâu lắng của hai câu thơ này. Nói sơ qua về hoàn cảnh sáng tác thì bài thơ này được viết vào năm 1977 – hai năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc. Hữu Thỉnh lúc này là một người lính đã trở về với cuộc sống đời thường.

Trong giây phút cảm nhận sự chuyển mùa ấy, dường như tác giả bất giác nhớ về những người đồng đội đã mãi mãi an nghỉ giữa tuổi thanh xuân rực cháy cùng khát vọng trở thành “đám mây mùa hạ” cống hiến cho quê hương của mình. Để rồi, trong lời thơ dường như có chút gì đó nuối tiếc, có chút sự vấn vương, lại như là sự hồi tưởng như đám mây đang trôi nhẹ nhàng vì tiếc nuối mùa hạ. Vì thế mà câu thơ “vắt nửa mình sang thu” không chỉ là hình ảnh thiên nhiên, mà nó còn là sự lắng đọng trong nỗi ưu tư, trăn trở của tâm hồn thi nhân.

Hình ảnh của mùa hạ còn sót lại cũng được nhà thơ miêu tả một cách tinh tế, thi vị:

Sự chuyển giao mùa của đất trời vẫn chưa được hoàn thiện khi trong không gian vẫn còn đọng lại chút dư vị của mùa hạ. Mùa hạ vẫn còn chưa đi nên nắng hạ vẫn còn nồng, còn sáng, chỉ có điều là nó đã bắt đầu nhạt dần đi. Những cơn mưa mùa hạ lúc này cũng đã vơi dần đi khi hơi thở của mùa thu đang dần ôm trọn không gian. Những tiếng sấm bất chợt cũng vì thế mà dần dần ít đi.

Những hình ảnh đặc trưng của mùa hạ vẫn còn, nhưng độ gay gắt của nó đang giảm để rồi chuyển hóa thành dịu êm. Dấu hiệu của mùa thu đang dần tăng lên nhưng sự phân hóa ranh giới hai mùa cũng vô cùng mong manh. Sự phân chia hai mùa vì thế mà chỉ có thể xác định qua sự nhạy cảm của giác quan, sự tinh tế của hồn người.

Âm điệu của khổ thơ giờ đang mang một màu trầm lắng đầy suy tư. Sự chuyển giao mùa chính là một quy luật tất yếu của tự nhiên, của cuộc đời. Vì thế, ta dẫu có tiếc nuối mùa hạ thì vẫn phải tiếp nhận mùa thu một cách an nhiên.

Trong hai câu thơ cuối, hình ảnh hàng cây đứng tuổi chính là một chứng nhân đang quan sát từng sự chuyển động của vạn vật xung quanh. Và phải chăng, hình ảnh này cũng mang những nỗi niềm suy tư mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm qua bài thơ? Tiếng sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, và hàng cây đứng tuổi chính là những người đã từng trải, đã đi qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống.

Khi người ta đã từng trải, người ta sẽ không còn quá bất ngờ trước những tác động của ngoại cảnh. Người ta cũng chẳng sợ hãi mà vững vàng khi biến động kéo đến. Chỉ khi đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh đất nước khó khăn thì ta mới hiểu hết được thông điệp cũng như ý nghĩa của hai câu cuối. Đó chính là lời khẳng định cho bản lĩnh của dân tộc ta, dám đương đầu trước mọi khó khăn sóng gió để giành về cuộc sống bình yên cho dân tộc.

Nói tóm lại, qua Sang thu, người đọc có thể cảm nhận được sự biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt của vạn vật của đất trời cuối hạ đầu thu. Qua đó, thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến độc giả cũng được truyền tải một cách tinh tế, khiến cho người ta thêm yêu quý quê hương, đất trời Tổ quốc mình.

Mùa thu hiện lên trong hương cốm mới, trong cái nắng vàng ươm ướp đất trời, trong hương bưởi nồng nàn say đắm. Mùa thu của Hữu Thỉnh cũng đẹp như thế, để lại nhiều ấn tượng và dư ba trong lòng người đọc. Bài thơ “Sang thu” chính là sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về một trong những mùa đẹp nhất trong năm.

Bài thơ được tác giả sáng tác năm 1977, khi ông tham gia trại viết văn quân đội. Mùa thu vốn là đề tài không mới trong thi ca: ta từng bắt gặp mùa thu trong “Thu ẩm”, “Thu điếu”, “Thu vịnh” trong thơ cụ Nguyễn Khuyến, trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu:

“Với áo mơ phai dệt lá vàng”

hay

Ta cũng từng bắt gặp mùa thu buồn man mác trong sáng tác của Lưu Trọng Lư:

Tiếp nối vào mạch thi cảm đó, Hữu Thỉnh đưa ta đến một mùa thu đẹp tuyệt nhưng lại trong một khoảnh khắc rất đặc biệt khi trời vừa chớm sang thu. Khoảnh khắc ấy phải là một tâm hồn đầy tinh tế, nhạy cảm mới có thể nhận ra được. Mở đầu bài thơ, tác giả đem tới không khí của mùa thu qua những cảm nhận đầu tiên về hương vị đất trời:

Tác giả nhận ra mùa thu qua hương thơm rất đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ. Hương ổi nồng nàn “phả” vào không gian – động từ “phả” khiến hương thơm như quyện thành luồng rất đậm đặc. Từ “bỗng” đặt ở đầu câu thơ làm nổi bật sự bất ngờ của tác giả khi nhận ra hương vị đầu tiên của mùa thu đất trời. Làn gió heo may mang theo hương ổi, đưa hương thơm ấy đi khắp mọi nơi khiến tâm hồn tác giả ngây ngất. Trong hương thơm đó, sương hiện lên qua từ láy gợi hình “chùng chình” khiến làn sương như trở thành một người còn đang lưỡng lự, chậm chạp len lỏi khắp mọi con ngõ. Sương giăng mắc trên những ngọn cây, sương lan ra trong từng con hẻm, tất cả hòa vào nhau tạo nên bức tranh phong cảnh làng quê Bắc Bộ vào thu trong một buổi chiều làm hiện lên vẻ đẹp thơ mộng đầy lãng mạn. Câu thơ cuối với nhịp 2/3 diễn tả sự phỏng đoán của tác giả.

Trong buổi chiều đó, tác giả như cảm nhận mùa thu đã thật sự lan tỏa khắp đất trời:

Dòng sông ăm ắp nước bắt đầu “dềnh dàng”, những cánh chim bắt đầu “vội vã” tìm nơi cư trú trước khi mùa đông lạnh giá bắt đầu. Các từ “được lúc, bắt đầu” khiến các sự vật trở nên như một con người, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Thu sang như mở ra một ô cửa đến với một thế giới mới, một sắc màu mới. Hình ảnh đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” là hình ảnh đầy độc đáo và giàu giá trị biểu cảm. Trên bầu trời cao xanh của mùa thu hình như còn sót lại những đám mây của mùa hạ. Động từ “vắt” khiến hình ảnh đám mây trở nên thật uyển chuyển, mềm mại như đang chấp chới nửa muốn nửa không sang. Không muốn vì nuối tiếc của hạ, nhưng lại muốn sang để trải nghiệm một không khí mới. Đó phải chăng cũng chính là tâm hồn tác giả đang đứng giữa ranh giới của thu và hè để hòa vào khoảnh khắc giao mùa của đất trời hay chăng? Hai khổ thơ đầu tiên tác giả sử dụng các từ láy có mật độ rất cao, thể hiện được những cảm xúc tinh tế của tác giả về thời khắc thu sang.

Nếu như hai khổ trên tác giả tập trung miêu tả mùa thu của đất trời thì đến khổ cuối lại quay về khắc họa mùa thu của lòng người qua các câu thơ đầy tính triết lí:

Mùa hạ đã qua đi, những gì của mùa hạ đều đang giảm dần đi. Nắng vẫn vàng ươm nhưng mưa đã vơi bớt và những cơn sấm cũng bớt bất ngờ để không làm kinh động đến hàng cây đứng tuổi. Thế nhưng chính hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” lại gợi cho ta nhiều suy ngẫm. Phải chăng, nó là hình ảnh của con người khi đã trưởng thành, đã đi đến cái dốc bên kia của đời người còn “sấm” là hình ảnh tượng trưng để chỉ những vang động, va đập của cuộc sống? Từ đó nhà thơ mang đến cho ta suy ngẫm sâu sắc: Khi con người ta đã đủ trưởng thành, đủ kinh nghiệm thì những vang động và thử thách của cuộc sống sẽ không còn khiến họ thấy nản lòng mà ngược lại lại luôn giữ một thái độ bình tĩnh đến không ngờ.

Bài thơ mang lại cho ta cảm nhận về khoảnh khắc sang thu đầy ấn tượng mà chỉ có một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được, không những thế, nhà thơ còn đem đến cho ta triết lí sâu sắc về mùa thu của đời người, của con người. Chính vì vậy mà “Sang thu” cho đến nay vẫn là một trong những bài thơ thu hay nhất trong nền văn học Việt Nam.

….

Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta. Bài thơ sang thu là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh giai đoạn sau chiến tranh. Bài thơ là những rung động nhẹ nhàng, tinh tế của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Vẻ đẹp bài thơ “Sang thu” thể hiện qua bức tranh mùa thu tươi tắn, tràn đầy sức sống qua cảm nhận của một tâm hồn nhạy cảm, luôn muốn gắn kết với đất trời, với cuộc đời rộng lớn.

Advertisement

Bài thơ đưa ta đến với cảnh đất trời của đồng quê Bắc Bộ khi sang thu, từ gần đến xa, với những nét rất gần gũi, thân thương:

Mọi hình ảnh, hiện tượng đó của đất trời khi chuyển từ hạ sang thu mọi người đều biết, đều quen. Vậy mà đến bài thơ này của Hữu Thỉnh ta mới cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp êm ả, thanh bình của nó. Hương ổi, gió se, sương mỏng, mây nhởn nhơ bay, chim vội vã về phương nam, nắng vẫn rực vàng, mưa vơi dần, tiếng sấm bớt hẳn… những tín hiệu báo mùa thu về ấy sao mà thân thương, gần gũi, nao nao gợi nhớ một miền quê thời thơ ấu trong kí ức của mỗi chúng ta.

Nhà thơ không viết “Thu sang” mà chọn tựa đề “Sang thu”: mùa thu chỉ mới bắt đầu, để “thu” làm bổ ngữ cho động từ “sang” gợi chủ thể cảm nhận sự chuyển mùa ấy là con người. Cách đặt tựa đề báo hiệu những cảm nhận tinh tế và riêng biệt về mùa thu.

Hương thơm của những trái ổi chín trong vườn “phả vào trong gió se” tức là hương thơm bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, chứ không thoang thoảng. Nhà thơ vừa ngửi thấy mùi hương ổi, lại vừa cảm nhận được cái se lạnh của gió đầu thu. Hương thì đậm đà mà gió thì nhè nhẹ nên không gian rất đỗi nồng nàn.

Sương thu thì “chùng chình” qua ngõ, nghĩa là nó có ý nhởn nhơ, chậm chạp lại, quấn quýt bên ngõ xóm, đường làng hay quấn quýt, giao hòa cùng người ngắm cảnh?

Hương ổi, gió sư, sương thu là những kí hiệu làm nhà thơ giật mình nhận ra “hình như thu đã về”. Cảm xúc của tác giả vừa nhẹ nhàng, vừa bâng khuâng. Vì lẽ, đây không phải là mùa thu đầu tiên trong đời nên sự hân hoan đã nhường chỗ cho sự đắm lắng, dịu nhẹ, khoan thai mà đón nhận:

Sông được lúc “dềnh dàng” chậm chạp, rề rà, không vội vàng gì. Người đọc như được thấy mặt nước phẳng lặng của sông thu soi chiếu cánh chim vội vã bay từ khung trời chói chang của mùa hạ sang khung trời ấm áp của mùa thu:

Vì lẽ ấy mà đám mây trên bầu trời cũng “nửa hạ – nửa thu”, “Có đám mây mùa hạ – Vắt nửa mình sang thu” đám mây mùa lưu luyến lúc giao mùa được cảm nhận bằng tâm hồn tinh tế và trong trẻo. Và mùa hạ dần qua cũng vơi dần những cơn mưa rào, trả lại cho trời thu sắc xanh muôn thuở.

Hai câu kết vừa có ý nghĩa tả thực, lại vừa có ý nghĩa hàm ẩn.Ý nghĩa tả thực là tả hiện tượng sấm và hàng cây lúc sang thu. Còn ý nghĩa hàm ẩn mà nhà thơ gửi gắm ở đây có lẽ là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (sấm) đã bớt đi sự bất ngờ đối với những người từng trải (hàng cây đứng tuổi).

Từ muôn đời, mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Non nước hữu tình trong cảnh sắc thu sang làm lay động cả những trái tim khó tính nhất! Hữu Thỉnh chính là một trong các nhà thơ tiêu biểu sở hữu cảm xúc tinh tế sâu sắc trước sự đổi thay đất trời trong những ngày tháng giao mùa. Mạch cảm xúc dâng trào mở ra bao tầng nghĩa đẹp đẽ qua bài thơ “Sang thu”.

Từ những câu thơ đầu tiên, ta đã nhận ra bao hình ảnh liên tưởng thú vị mà nhà thơ muốn gửi gắm:

Tâm hồn nhà thơ với bao sự nhạy cảm, tinh tế. Khoảnh khắc nhà thơ nhận ra mùa thu cũng làm gợi nên bao cảm xúc khác lạ. Từ muôn đời nay, các vị thi sĩ tìm ra mùa thu với tiếng lá khô xào xạc giòn giã

Hoặc qua bầu trời trong xanh cao vút tựa như không có đáy như trong Thu điếu – Nguyễn Khuyến, hoặc là mùi hương cốm mới, là hình ảnh hoa cúc họa mi ẩn hiện, hoặc là ngọn gió heo héo hắt giữa mùa thu Hà Nội.

Cái khoảnh khắc nhận ra chớm thu của Hữu Thỉnh hiện lên chân thật, gần gũi hơn nhiều. Nó là chút tư vị của “hương ổi” xen lẫn trong gió. Mùi hương thơm ngọt ngào của một thức quà quê quen thuộc đi vào sâu trong tiềm thức tuổi thơ của mỗi người. Cái hương ổi quen thuộc và dễ chịu ấy không phải là thoang thoảng mà là “phả vào trong gió se”. Mùi hương hòa quyện, đặc quánh, kích thích khứu giác đầy tinh tế của thi nhân. Sự chuyển mùa vô hình giờ đây lại dần được tái hiện một cách rõ nét qua lời thơ của Hữu Thỉnh.

Từ láy “chùng chình” được sử dụng rất đắt! Động từ ấy gợi tả cảm giác của sự chậm rãi, thảnh thơi. Ta dường như có thể cảm nhận được màn sương đang giăng mắc giữa những con phố. Phải chăng sương đang cố nán lại quanh con ngõ nhỏ để thủ thỉ báo hiệu với chàng thi sĩ rằng “Hình như thu đã về”?

Màn sương “chùng chình” ấy còn tựa như một chiếc khăn voan đang hờ hững vắt ngang trời, còn chút gì đó vấn vương sự ấm áp của mùa hạ trước khi đón chào sự se se lạnh của mùa thu hiu lạnh. Sự ngỡ ngàng của người thi nhân trước khoảnh khắc mùa thu đến cửa:

Sự chuyển giao mùa đột nhiên hiện ra rõ nét với muôn vàng hình ảnh rộn ràng thể hiện rõ rệt thông qua sự chuyển biến của đất trời thiên nhiên rộng lớn. Khổ thơ như mở ra một không gian thoáng đãng và cao rộng tuyệt đẹp đón chào mùa thu.

Đó là hình ảnh một con sông “dềnh dàng” miên man chầm chậm chảy. Nó chẳng phải một dòng sông của mùa hạ cuồn cuộn chảy trong vội vã cùng những cơn mưa rào nặng hạt. Dòng sông mùa thu hiền hòa nhã nhặn, mỏng manh. Vẻ đẹp mơ màng của thiếu nữ mới lớn đầy sự trong trẻo, thanh khiết và dịu dàng. Trái ngược với một dòng sông “dềnh dàng”, đằm thắm, thư thả là những cánh chim mùa thu vội vã, khẩn trương.

Mùa thu đến, tiết trời trở nên ảm đạm và chớm lạnh, những cánh chim vội vã tìm kiếm thức ăn dự trữ, tìm kiếm nguyên liệu xây dựng tổ ấm cho kiên cố để chống chọi với một mùa đông lạnh giá sắp về. Khoảnh khắc giao mùa của tự nhiên muôn đời mờ mờ ảo ảo, ấy vậy mà bằng một tâm hồn tinh tế cùng óc quan sát tỉ mỉ Hữu Thỉnh làm sống dậy bức tranh giao mùa.

Hai câu thơ “Có đám mây mùa hạ /Vắt nửa mình sang thu”quả là một hình ảnh tuyệt đẹp. Tác giả đã tài tình dùng phép nhân hóa cho những đám mây vô tri vô giác, tạo cho đám mây chút cảm giác lười biếng và ngái ngủ. Phải chăng mây vấn vương lắm cái nắng ấm chói chang của mùa hạ nên mới chỉ mới hững hờ “vắt nửa mình sang thu”. Bức tranh dần hiện ra rõ nét với nhiều chi tiết, hình ảnh gợi cảm:

Bức tranh thiên nhiên không chỉ đem lại cho người đọc sự cảm thụ về cảnh sắc vẻ đẹp mà còn ẩn dưới lời thơ những triết lý sâu sắc của tác giả. Khổ thơ như tiếng lòng của Hữu Thỉnh về những triết lý ông đã trải qua và thấu hiểu trong những năm tháng cuộc đời. Ở thời khắc giao mùa hạ – thu mỏng manh mơ hồ ấy, tuy nắng vẫn ở đó thế nhưng sự gay gắt đã giảm đi rất nhiều, cái bức bối của mùa hạ để dần nhường chỗ cho sự dịu dàng, ấm áp xen lẫn chút không khí se lạnh đặc trưng của mùa thu.

Mưa cũng dần biến chuyển, mưa của mùa hạ là mưa của sự giận hờn, đỏng đảnh. Những cơn mưa dài, nặng hạt nhưng ngắn tựa như con gái lúc mới yêu vậy. Ngược lại thì mưa của mùa thu lại thưa thớt, nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Vạn vật tự nhiên đều trở nên đằm thắm khi chớm sang thu.

Từ đây, Hữu Thỉnh đã gửi gắm đến cho người đọc những triết lý sâu sắc về cuộc đời: “Sấm đã bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi”. Sấm đối với chúng ta chỉ đơn thuần là một hiện tượng tự nhiên thường thấy trong những cơn mưa. Thế nhưng, bằng con mắt cảm quan tinh tế của nhà thơ, ông đã nhìn sấm tựa như những giông bão của cuộc đời. Trước mùa hạ của tuổi trẻ, của những năm tháng thanh xuân nhiệt huyết qua đi, con người dần ngả mình “sang thu”, ngả mình sang dốc bên kia của cuộc đời.

Giờ đây “hàng cây đứng tuổi” này đã từng chịu biết bao nhiêu giông bão vô thường của cuộc đời làm cho chao đảo thì nay đã đủ vững chãi để an nhiên trước những đợt sấm bão giông kia. Ai mà chẳng phải trải qua những tháng năm non dại bồng bột nhiều vấp ngã, nhưng có vấp ngã thì mới có trưởng thành. Càng nhiều trải nghiệm chúng ta sẽ càng mạnh mẽ, càng điềm nhiên trước những thử thách bao giông, trước những thay đổi trớ trêu cuộc đời. Điềm nhiên, bình thản nhìn sấm tan dần trước mắt!

Sang thu được viết khi Hữu Thỉnh bước vào ngưỡng tuổi ba lăm. Có lẽ chính vì thế mà hồn thơ của ông lại cảm nhận tinh tế bao xúc cảm kỳ diệu của thiên nhiên để rồi giật mình nhận ra mùa thu đã về. Từ mùa thu của thiên nhiên, ông nghĩ về mùa thu của đời mình. Để rồi ông viết khoảnh khắc giao mùa ấy thật chậm rãi, thật rõ nét như thể muốn ngăn đi sự khốc liệt, vội vã của thời gian. Bao nhiêu năm tháng huy hoàng đã trôi qua theo mùa hạ cuối cùng của đời người để lại bao lưu luyến trong lòng bạn đọc về một mùa thu chớm bước qua thềm.

Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích Khổ 4 Bài Thơ Bếp Lửa 2 Dàn Ý &Amp; 5 Mẫu Phân Tích Khổ Thơ Thứ 4 Bếp Lửa

Khổ 4 bài thơ Bếp lửa đã tái hiện vô cùng chân thực, xúc động về những kỉ niệm tuổi thơ bên bà của nhà thơ. Qua đó, càng giúp chúng ta biết trân quý tình cảm gia đình thiêng liêng, cao cả. Mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9.

1. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ bằng Việt và bài thơ Bếp lửa

Giới thiệu khái quát về nội dung của khổ thơ thứ 4.

2. Thân bài

– Kí ức về bà và những ngày gian khó của hai bà cháu:

Sự tàn phá dữ dội của giặc Mĩ làm cho ngôi nhà của hai bà cháu “cháy tàn cháy rụi”.

Thành ngữ dân gian “Cháy tàn cháy rụi” gợi ra cái khốc liệt của chiến tranh và cảnh hoang tàn của ngôi nhà, của làng quê tác giả.

Đối lập với sự hủy diệt của kẻ thù là tình cảm yêu thương, đoàn kết của người dân xóm làng.

Trải qua bao gian khó bà vẫn kiên cường “vững lòng” để làm chỗ dựa cho con, cho cháu.

Bà mạnh mẽ gánh vác mọi thứ.

Bà dặn cháu không kể về ngôi nhà bị tàn phá với bố để bố yên tâm công tác

3. Kết bài

Đánh giá chung về giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ.

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ.

Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô.

Giới thiệu đoạn trích: khổ 4 bài thơ

2. Thân bài:

Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là (đoạn thơ 4):

Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi”: đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu.Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt.Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.

Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.

3. Kết bài:

Kết lại tình cảm gia đình là cơ sở vững chắc để làm nền tảng cho tình yêu quê hương đất nước

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt bình dị với những cảm xúc tinh tế, giàu suy tư và chan chứa cảm xúc. Những kỉ niệm tuổi thơ, tình cảm gia đình, …là nguồn chất liệu hiện thực phong phú “chắp cánh” cho những sáng tạo thơ văn giàu giá trị của ông. Bếp lửa là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho tài năng, phong cách nghệ thuật của Bằng Việt. Bài thơ là tình yêu thương, kính trọng của nhà thơ dành cho người bà của mình. Trong khổ 4 của bài, Bằng Việt đã tái hiện đầy chân thực, xúc động về những kỉ niệm tuổi thơ bên bà, đó là những kỉ niệm về một thời gian khó nhưng ấm áp tình bà cháu của nhà thơ.

Tuổi thơ bên bà của tác giả là những ngày tháng bình yên trong tâm hồn nhưng cũng là những tháng ngày gian khó, vất vả nhất của hai bà cháu khi giặc Mĩ thường xuyên tàn sát, bắn phá:

Chiến tranh đã mang đến bao đau thương, mất mát cho con người, hai bà cháu và người dân trong làng cũng nhiều lần trở thành nạn nhân của sự tàn ác, bất nhân của kẻ thù. Giặc Mĩ đốt làng, đốt xóm “cháy tàn cháy rụi” làm cho cuộc sống vốn nghèo khó của hai bà cháu vốn khó khăn lại càng thêm phần cơ cực, gian khó “Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Thế nhưng, trong cái gian khó, u ám của hoàn cảnh thì vẻ đẹp của tình người, tình hàng xóm lại tỏa rạng ấm áp hơn bao giờ hết. Những người dân nghèo giúp đỡ, động viên lẫn nhau, giúp đỡ bà để cùng vượt qua những tháng ngày gian khó “Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”, tình cảm ấy thật đơn sơ nhưng cũng thật cao quý biết bao.

Trong không khí ác liệt của chiến tranh, hình ảnh người bà hiện lên trong dòng kí ức của người cháu thật đẹp:

Dẫu hoàn cảnh có ác liệt, dẫu cuộc sống có nhiều khó khăn, mất mát nhưng bà vẫn luôn mạnh mẽ, kiên cường để làm chỗ dựa cho người cháu, cho cả gia đình mà bà yêu quý. Bà gieo vào lòng cháu niềm tin, về sự lạc quan giữa cảnh mưa bom bão đạn, bà dặn dò cháu không kể lể với bố để bố yên tâm chiến đấu nơi tiền tuyến xa xôi. Lời dặn dò của bà giản dị nhưng chứa chan tình thương của một người bà yêu cháu, một người mẹ thương con. Bà là hậu phương vững chắc nơi quê nhà nên dù phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn đi nữa thì bà vẫn luôn “vững lòng”.

Qua khổ thơ ta không chỉ cảm nhận được sự kiên cường của bà, tình yêu thương chân thành, giản dị của bà dành cho cháu, cho con mà còn cảm nhận được những vẻ đẹp thật cao quý, bà bình tĩnh, lạc quan, bà là hậu phương vững chắc cho cả gia đình.

Khổ thơ tái hiện lại không khí dữ dội của chiến tranh, thế nhưng thứ đọng lại trong lòng độc giả không phải sự ám ảnh, kinh hoàng mà là niềm xúc động khôn nguôi về tình người nơi xóm làng, láng giềng, tình cảm gia đình thiêng liêng, cao đẹp và đọng lại sâu đậm nhất chính là tình cảm ấm áp, mềm mại về bà.

Chiến tranh mang đến cho con người ta sự ám ảnh mỗi khi nghĩ tới. Nó khiến cho bao nhiêu gia đình phải chịu sự chia cắt, bao nhiêu gian khổ gánh nặng lên vai người đi, người ở lại. Có ai đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh mới biết trân trọng sự bình yên. Và Bằng Việt là một nhà thơ đã có một tuổi thơ như vậy, tuổi thơ sống trong chiến tranh phải sống xa bố mẹ, chiến tranh bắt người bà yêu dấu của ông phải một mình gánh vác trọng trách chăm lo cho người cháu. Cũng nhờ đó mà với ông bao nhiêu kỷ niệm gắn với tuổi thơ bên bà đã giúp ông sáng tác thành công bài thơ Bếp lửa. Bài thơ được viết trong khoảng thời gian ông xa nhà, ở một đất nước xa xôi, nơi mà người ta dễ hoài niệm và nhớ về quá khứ.

Ở bếp lửa, người đọc thấy được duy nhất bao trùm bài thơ đó là tình yêu thương, đùm bọc vô bờ bến của người bà dành cho đứa cháu của mình. Qua những năm tháng chiến tranh bố mẹ xa nhà, ông được sống với bà, được nhận những tình cảm trọn vẹn.

Bao nhiêu kỷ niệm về chiến tranh, về người bà kiên cường, vững vàng hiện về trong tâm trí ông:

Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu mênh mang. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố-Mày có viết thư chớ kể này kể nọ-Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Gian khổ thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó cũng chính là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam ta từ muôn thuở, luôn can đảm, bản lĩnh và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hy sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất nước đó ư.

Chiến tranh là một danh từ bình thường, nhưng đằng sau nó lại là một khung cảnh đầy mùi máu tanh, chiến tranh khiến biết bao con người hy sinh, gây ra đau khổ cho bao người và hai bà cháu trong bài thơ này cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi,… lúc này đây hình ảnh người bà hiện lên thật thiêng liêng thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả.

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình… Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông.

Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc ở đây sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.

Sự kiên cường, vững vàng của người bà đã nuôi ông lớn, đã cho ông có một tuổi thơ thấm đậm tình thương. Qua khổ thơ càng khẳng định cho những người anh em trên mọi miền năm châu thấy được lòng kiên định, hiên ngang bất khuất của những người con đất Việt. Dù chiến tranh, dù tuổi tác cũng không làm ý chí con người bị lung lay.

Nhà thơ Bằng Việt có một người bà, người mà suốt bao nhiêu tháng năm tuổi thơ đã cùng ông lớn lên, người đã thổi vào tâm hồn thân thiện, giúp ông hiểu thế nào là sự biết ơn, thán phục và là người đã tạo dựng lên cho ông có một tuổi thơ không thể nào quên trong những năm tháng chiến tranh. Chính vì vậy mà bài thơ Bếp lửa được ra đời, một bài thơ ông viết để dành riêng cho người bà kính yêu của mình.

Du học ở một đất nước xa xôi, nó khiến cho ông nhớ lại những kỷ niệm không thể xóa mờ của một tuổi thơ đầy gian khổ, khó nhọc, khoảng thời gian mà ông được nhận tình yêu thương bao bọc của người bà của mình. Khi cô đơn người ta thường hoài niệm, nó hiện về trong ông, về người cháu trong bài thơ.

Kỷ niệm cũ như những thước phim thời thơ ấu tràn về trong tâm tưởng của người cháu:

Chiến tranh. Chỉ cần nhắc đến hai chữ ấy thôi, ai trong chúng ta cũng đều liên tưởng đến tính khốc liệt, tàn ác mà nó đem đến cho dân tộc. Nó đã gây ra bao đau thương, mất mát cho bao người, bao gia đình. Hai bà cháu trong bài thơ cũng không ngoại lệ: gia đình bị chia cắt, nhà cửa bị đốt “cháy tàn cháy rụi”. Những lúc như vậy, duy chỉ có tình làng xóm, tình cảm giữa những con người cùng khổ, những con người cùng thấm thía được nỗi đau thương của chiến tranh, là không bị hủy diệt. Họ đỡ đần nhau, đùm bọc nhau, cùng nhau vượt qua những ngày tháng gian lao, vất vả.

Và trong hoàn cảnh này, hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả. Nỗi khổ vì nhà của bị giặc tàn phá, bà âm thầm chịu đựng. Từ “lầm lũi” diễn đạt rất xúc động hình ảnh bà lặng lẽ sớm hôm, muốn chia sẻ, gánh vác cùng con cháu những lo toan vất vả, nhọc nhằn.

Bà vẫn chịu thương chịu khó, cặm cụi làm việc chỉ vì không muốn con mình ở chiến khu phải lo lắng cho gia đình:

Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. Nỗi khổ giặc phá làng xóm, nỗi vất vả, thiếu thốn, bà âm thầm chịu đựng. Chỉ mong sao con mình ở nơi tiền tuyến xa xôi luôn yên lòng để bảo vệ mảnh đất quê hương. Lời dặn dò giản dị ấy không chỉ giúp hiểu thêm về tấm lòng, về tình cảm thương con, thương cháu của người bà, mà còn gián tiếp đề cao những phẩm chất cao quý của bà: bình tĩnh, vững lòng, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để yên lòng người đi công tác.

Advertisement

Đức hy sinh, tần tảo; sự nhẫn nại, kiên trì trụ thật vững trong lòng bà đến cảm động! Cháu nhớ đến bà, nghĩ về bà và cảm nhận được rằng: bà đang hiện diện bên mình. Lời bà yêu thương, ấm lòng cứ như văng vẳng bên tai… Làm sao cháu có thể quên?

Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tư, triết luận. Bài thơ “Bếp lửa” là bài thơ xuất sắc của ông, được sáng tác năm 1963, khi là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki-ép. Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương đất nước.

Có người nói người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người Thật vậy. Dù đi đâu, ở đâu, ai cũng nhớ về quê hương, nhớ về những kỉ niệm đã từng làm ấm lòng người, là điểm tựa tinh thần để vươn lên nghịch cảnh.

Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng của người cháu về người bà và bếp lửa quê hương. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà; cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.

Ở khổ thơ thứ 4, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:

Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu. Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường….

Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Cảm Nhận Khổ 3 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng (Dàn Ý + 5 Mẫu) Cảm Nhận Tây Tiến Khổ 3 trên website Mfua.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!