Bạn đang xem bài viết 10 Bài Phân Tích Phẩm Chất Anh Hùng Của Các Nhân Vật Trong “Rừng Xà Nu” Của Nguyễn Trung Thành được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Mfua.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 10“Cách mạng tháng Tám” là đề tài mà rất nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác. Đã có rất nhiều tác phẩm đặc sắc và có giá trị cho đến ngày nay được sinh ra trong thời kỳ máu lửa này.Văn xuôi thời kỳ này cũng là một chùm về anh hùng cách mạng. Nếu như có ‘Vợ nhặt’ -Kim Lân, có ‘Vợ chồng A Phủ’ – Tô Hoài với giá trị nhân đạo được soi sáng bởi lý tưởng của cuộc cách mạng lịch sử thì không thể không kể đến bản anh hùng ca của Nguyễn Trung Thành – ‘Rừng xà nu’.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiên trường kỳ của dân tộc. Ông là nhà văn chiến sĩ ngắn bó với Tây Nguyên và viết thành công về đề tài miền núi. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông có bút danh là Nguyên Ngọc, nổi tiếng với tác phẩm ‘Đất nước đứng lên”. Nguyên Trung Thành là bút danh của ông trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Và tác phẩm ‘rừng xà nu’ là một trong những thành công của ông trong thời kỳ này.
“Rừng xà nu” được viết năm 1965 in trong tập ‘Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc’. Mùa hè năm 1965 là thời gian đế quốc Mĩ đổ quân ồ ạt, bắt đầu thực hiện chiến tranh cục bộ ở nước ta. Chúng lê maý chém đi khắp nơi, thực hiện những cuộc càn quét đẫm máu. Trong thời kỳ khốc liệt ấy, ‘rừng xà nu’ đã trở thành một bản ‘hịch tướng sĩ’. Nhà văn đặt tên tác phẩm là ‘rừng xà nu’ không phải là một sự ngẫu nhiên mà là có chủ ý. Đối với tác giả, rừng xà nu là hình ảnh gắn bó máu thịt với ông: ” trước mắt tôi là cánh rừng xà nu nối tít tắp, tôi yêu xà nu từ dạo ấy”. Xà nu như là một biểu tượng của cuộc sống đau thương nhưng kiên cường bất khuất của các dân tộc Tây Nguyên mà đại diện là người làng Xô-man. Nổi bật lên trên rừng xà nu hùng vĩ không ai khác chính là người dân làng Xô-man. Đó là cụ Mết, là T nú, là Dít, là bé Heng.
Cụ Mết là đại diện cho vẻ đẹp cha ông. Cụ là một già làng sáng suốt, in dấu siêu phàm của một ông già trong thần thoại. Ông là thế hệ những con người trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống quân thù của dân tộc ta. Ông đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt và trường tồn sang kháng chiến chống Mĩ. Xuất hiện bằng hình ảnh ‘một bàn tay nặng trịch như kìm sắt” với ngoại hình “quắc thước”, giọng nói “ồ ồ” vang dội, tấm ngực căng như”cây xà nu lớn”. Có thể nói với ngoại hình mang đậm chất sử thi huyền thoại này, cụ được coi là linh hồn của cuộc đấu tranh, là niềm tin của dân làng Xô man. Cụ là người có sức ảnh hưởng lớn đối với dân làng. Trong đêm nổi dậy, cụ nói “thế là bắt đầu rồi’, thanh niên trai tráng trong làng vì thế mà xông lên. Không chỉ thế cụ còn có một nhận thức rất đúng đắn và sâu sắc về tinh thần của cuộc đấu tranh này.
Cụ hiểu được tầm quan trọng của cán bộ Đảng ta “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì nước còn”. Hay “đánh Mĩ là còn phải đánh dài”. Bởi vậy mà việc nuôi giấu cán bộ của làng Xô man luôn được thực hiện hết sức cẩn thận. Cụ luôn tự hào chưa có cán bộ nào của ta bị bắt ở làng, ở rừng của làng. Mặc cho bọn giặc đã từng nhiều lần răn đe như “treo cổ anh Xút trên cây vả đầu làng” hay “chặt đầu, cột tóc bà Nhan treo đầu súng”. Nhưng dân làng Xô man vẫn luôn tìm cách giúp đỡ những cán bộ Đảng của ta. Cũng chính cụ là người đã đưa ra chân lí thời đại “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”. Đó là phải dùng bạo lực để chống lại bạo lực. Cụ chính là một trong những nhân vật chủ chốt của việc dân làng mài giáo để chống giặc. Đặc biệt, cụ rất giàu lòng thương với dân làng. Cụ để dành muối cho người ốm, cụ sống tình cảm với T nú với tất cả buôn làng, cụ đặt niềm tin vào tương lai của không chỉ dân làng mà cả dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kì sắp tới. Tình yêu đối với quê hương với dân làng Xô man của cụ Mết gắn liền với tình yêu cách mang, tình yêu nước, yêu Đảng. Tóm lại cụ Mết là hình ảnh đại diện cho vẻ đẹp của một già làng của dòng văn học cuộc đời.Đó là một vẻ đẹp anh hùng mang dáng dấp sử thi Tây Nguyên.
Nhân vật trung tâm của truyện ngắn này là T nú. Câu truyện của chàng thanh niên này được kể qua lời của cụ Mết. Anh là tiêu biểu cho số phận, con đường đấu tranh của dân làng Xô man. Anh là “người Stra mình”, mồ côi cha mẹ, lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng Xô man. Trong anh là những phẩm chất nổi bật. Trước tiên anh là người có lòng dũng cảm gan góc kiên cường và mưu trí. Tnu sớm đến với cách mạng trong những ngày gian khổ, ác liệt nhất. Anh là thành viên đi liên lạc và nuôi giấu cán bộ ta. Dù bọn giặc có nhiều lần răn đe hăm dọa, chúng bắt anh Xút, bà Nhan nhưng T nú vẫn không sợ mà vẫn tiếp tục tham gia. Anh vẫn cùng Mai nuôi giấu cán bộ Quyết trong rừng. Khi được anh Quyết dạy chữ, T nú thua Mai, anh đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu “chảy máu dòng dòng”. Khi đi liên lạc, “đầu sáng lạ lùng”.
T nú “không bao giờ đi đường mòn”, mà cứ trèo lên cây cao xem xét rồi “cứ xé rừng mà đi”, “không thích lội chỗ nước êm mà cứ lựa thác nước gập ghềnh mà băng qua”. Bởi theo anh những nơi đó giặc ít ngờ tới. Một lần, bị giặc phục kích bất ngờ, anh chỉ kịp “nuốt luôn lá thư”. Bị giặc tra tấn dã man nhưng anh quyết không khai. Khi bọn giặc tra khảo hỏi cộng sản ở đâu, anh còn thẳng thừng chỉ tay vào bụng nói “cộng sản ở đây này”. Trên lưng anh bây giờ ngang dọc những vết chém ngày ấy. Rồi anh bị giam vào ngục Kon Tum nhưng vẫn tìm cách thoát ra để tiếp tục tham gia kháng chiến và bây giờ anh đã là một anh chiến sĩ cộng sản. Không chỉ là người dũng cảm gan góc, mưu trí kiên cường, ở anh còn sáng lên đức tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Anh tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương, anh xin phép được về làng Xô man. Giấy phép cho anh về một đêm thì đúng một đêm sáng sớm hôm sau anh lên đường.
Từ tính kỉ luật cao ấy, anh nung nấu nó thành lòng trung thành với Đảng với cách mạng. Khi bị đốt mười đầu ngón tay, anh vẫn nhớ kĩ lới anh Quyết dạy “người cộng sản không thèm kêu van, quyết không thèm kêu van” mặc dù “răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. T nú không thèm kêu nửa lời mà luôn tâm niệm câu nói của a Quyết. Anh nhớ như in câu nói của cụ Mết “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì nước còn”. Trái tim T nú là một trái tim đầy yêu thương và sục sôi căm giận Với vợ con Mai, anh là người cha đầy trách nhiệm.Mấy hôm chưa đi chợ mua vải được anh xé tấm đồ ra cho Mai địu con. Chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị bọn giặc đánh đập, anh đã bứt hết trái vả mà không hay. Mắt anh lúc ấy là hai cục lửa lớn, tay không nhưng anh vẫn xông vào xô ngã bọn giặc để cứu mẹ con Mai. Anh còn sống rất tình nghĩa với buôn làng. Với bọn giặc anh không chỉ có thù chung mà còn thù riêng của anh. Sự căm giận đối với bọn giặc đã làm động lực để anh chiến đấu. T nú là một nhân vật tiêu biểu cho cuộc đấu tranh của dân làng Xô man. Anh là tiêu biểu cho thế hệ nối tiếp bước của cụ Mết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Dít và bé Heng là đại diện cho thế hẹ tiếp theo của cụ Mết và T nú, là những cô gái dũng cảm của dân làng Xô man. Dít có phong cách nổi bật là sự nhanh nhẹn, rắn rỏi và cương nghị. Khi bị giặc bắn hăm dọa, những phát đầu tiên Dít còn giật mình nhưng sau đó Dít không giật mình nữa mà nhìn thẳng vào bọn giặc. Bây giờ, Dít chững chạc trên cương vị “Bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội”. Cô được mọi người tin cậy và yêu thương. Dít còn nghiêm khắc hỏi giấy T nú. Bé Heng là thành viên nhỏ tuổi nhất được miêu tả trong truyện ngắn này. Trong trang phục học làm người lính, bé Heng nhanh nhẹn tháo vát thông thạo hầm chông hố chông. Bé như là một cây xà nu mới nhú, hoàn thiện bức tranh phù điêu về con người Tây Nguyên.
Cụ Mết – T nú – Dít – bé Heng đã hoàn thành bức tranh vẻ đẹp của người dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Ở bốn độ tuổi khác nhau, bốn nhân vật đã tạo thành một dòng chảy truyền thống, thể hiện sự tiếp nối trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 9Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 10
Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể hùng. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng đều có những nét chung: họ đều là những con người Tây Nguyên bất khuất thời chống Mỹ, ở họ đều cháy lên lòng yêu nước thương buôn làng, lòng hận thù quân giặc. Đều anh hùng bất khuất nhưng mỗi người lại anh hùng theo một cách riêng.
Cụ Mết là già làng quắc thước, râu dài tới ngực và đen bóng. Cụ được nhà văn miêu tả trong sự so sánh đối chiếu với cây xà nu “lồng ngực của cụ căng như một cây xà nu lớn”, đôi bàn tay cụ “Sần sùi như vỏ cây xà nu, bàn tay cụ cứng như sắt”, giọng nói của cụ Mết thì ồ ồ rộn vang trong lồng ngực. Như tất cả những người dân Xô Man khác, cụ Mết rất ít nói. Lời nói khen tặng cao nhất chỉ là “được” như nhưng những lời lẽ của Cụ lại có một sức mạnh cổ vũ động viên rất lớn đối với dân làng.
Cụ Mết là hiện thân của truyền thống, là pho sự sống của làng Xô Man, luôn luôn có tình yêu sâu sắc với quê hương, dân làng. Khi Tnú đi xa về, cụ dẫn anh ra máng nước đầu làng dội rửa, bằng việc ấy cụ như muốn nhắc nhở người con xa quê: dù có đi tới phương trời nào cũng phải ghi nhớ và trân trọng nguồn cội thiêng liêng của quê hương. Nói chuyện với Tnú, cụ luôn tự hào khẳng định: “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất vùng núi này”. Trong niềm tự hào và kiêu hãnh dành cho buôn làng, cụ đặc biệt tự hào về Tnú – người con yêu tú của cộng đồng Xô Man: “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” và khi Tnú trở lại thăm làng cụ đã tiếp đãi anh bằng tất cả tấm lòng của một già làng dành cho đứa con yêu nhất của mình.
Cụ là một người có lòng tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Cụ là sợi dây gắn kết giữa Đảng với nhân dân Tây Nguyên. Cụ Mết luôn tâm niệm và dặn dò con cháu: “cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Nó cho thấy tình cảm của cụ với cách mạng, với Đảng thật thiêng liêng thấm thía khi nó có cội nguồn từ tình yêu “núi nước”, quê hương. Cách nhắc nhở ấy khiến mỗi người dân Xô Man phải khắc cốt ghi tâm bởi nó được nói ra bởi con người từng trải và có tiếng nói trong cộng đồng. Hơn nữa cụ Mết còn có những chân lý thời đại được đúc kết trong những câu nói giản dị: “đánh Mỹ phải đánh dài”, “Nhớ lấy, ghi lấy sau này tao chết rồi, bay còn sống kể lại cho con cháu: Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Một khi kẻ thù đã dùng bạo lực thì mỗi chúng ta phải khắc ghi tội ác của chúng, biến căm thù bằng sức mạnh, phải biết cầm vũ khí để tiêu diệt kẻ thù.
Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man, đó là sự cỉ huy sáng suốt giàu kinh nghiệm và uy lực. Trước cái chết của vợ con Tnú, trước cảnh Tnú bị bắt trói, tra tấn dã man, cụ Mết đau đớn nhưng tỉnh táo, không để tình cảm chi phối. Cụ nhắc đi nhắc lại, “tao cũng chỉ có hai bàn tay không. Tao quay vào rừng…tìm bọn thanh niên…tìm giáo mác”. Trong khi Tnú hoạt động một cách bồng bột nôn nóng thì cụ Mết đã bình tĩnh chỉ huy dân làng vùng dậy tự trang bị vũ khí mài bằng đá núi Ngọc Linh, chém chết tiểu đội lính ngụy, giải cứu cho Tnú, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy khắp núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh cụ Mết chống giáo chỉ huy dân làng trong ánh lửa xà nu bừng bừng khiến cho ta nhớ đến các nhân vật trong sử thi Tây Nguyên. Có thể nói nhân vật cụ Mết đã trở thành một cơ sở quan trọng tạo nên vẻ đẹp sử thi hùng tráng trong chuyện ngắn.
Tóm lại: cụ Mết là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền thuyết, trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Thông qua nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong thời đánh Mỹ, cũng đồng thời khái quát chân lý lịch sử lớn lao của thời đại, lý giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng nhân dân, đất nước. Tnú: ban đầu Nguyễn Trung Thành định đặt tên cho nhân vật của mình là anh Đề nhưng cái tên Đề nó “Kinh quá”, người kinh quá”. Đặt tên nhân vật chính của mình là Tnú, cùng với dân làng Xô Man, Dít, bé Heng, nhà văn đã góp phần tạo cho câu chuyện của mình không khí Tây Nguyên rõ nét.
Tnú mồ côi từ nhỏ, sống trong vòng tay thương yêu của dân làng Xô Man và thừa hưởng sự gan góc, mạnh mẽ như một truyền thống của dân làng. Học chữ Thua Mai, Tnú đập bể cái bảng nữa, rồi cầm một hòn đá đập vào đầu đến chảy máu để tự trừng phạt. Đi liên lạc cho anh Quyết, Tnú cứ “xé rừng mà đi, lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước như một con cá kình”. Vợ con bị giặc tra tấn, Tnú một mình tay không nhảy xổ vào giữa bọn lính cứu vợ con. Cái mộc mạc, giản dị mà đầy kiêu hãnh bộc trực trong con người Tnú luôn được toát ra trong mọi hoàn cảnh.
Trong con người Tnú có sự chan hòa giữa tình yêu quê hương với tình cảm gia đình, vợ con. Anh yêu từng cánh rừng xà nu, từng con người Xờ Trá, yêu từng con nước đầu nguồn. Anh yêu mẹ con Mai và liều mình lao vào đám giặc để bảo vệ hai mẹ con, đã ôm hai mẹ Mai trong đôi cánh tay của mình. Đi lực lượng, dù rất nhớ làng, anh cũng chỉ xin về có một đêm nhưng khoảng thời gian đó cũng đủ để anh nhìn ngắm quê hương và buôn làng với tất cả sự xúc động chân thành của một người con xa quê. Khi chia tay, Tnú bịn rịn, bâng khuâng giã từ cánh rừng như giã từ một người ruột thịt khiến ta hiểu rằng rừng cây mảnh đất quê hương gắn bó với bao kỉ niệm êm đềm, dữ dội, dù hạnh phúc hay đau thương thì đó vẫn là một nỗi nhớ niềm thương trong lòng Tnú.
Tnú cũng là người giác ngộ cách mạng từ rất sớm, yêu nước và một lòng hướng về cách mạng. Từ nhỏ, Tnú đã được anh Quyết dạy học chữ, đã cùng Mai nuôi giấu cán bộ, Tnú học cái chữ của Đảng, đi tiếp tế, đi liên lạc và bảo vệ theo cán bộ theo lời dạy của già làng: “cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Và khi anh Quyết chết đi, Tnú là một trong những nòng cốt cách mạng của dân làng Xô Man. Trải qua nỗi đau lớn nhất của đời mình là mẹ con Mai chết, bản thân mình bị tra tấn, Tnú đã vượt qua đau thương mất mát để trở thành một người cộng sản, trở thành niềm tự hào của cụ Mết và buôn làng. Bi kịch lớn nhất của đời Tnú là anh không cứu sống được vợ con mình. Vậy mà Tnú không ngục ngã, vẫn đứng lên hiên ngang như cây xà nu trong mưa bom bão đạn.
Tnú là hình ảnh người anh hùng trong sử thi với những phẩm chất gan dạ, kiên cường, nghĩa tình, thủy chung được nhà văn chú ý khắc họa qua một chi tiết điển hình được lặp lại nhiều lần: đó là hình ảnh đôi bàn tay. Đó cũng là đôi bàn tay bình thường như mọi bàn tay khác nhưng lại được Nguyễn Trung Thành nhấn mạnh như một chi tiết nghệ thuật. Đó là đôi bàn tay lao động từng lấy đá từ đỉnh núi Ngọc Linh về, đôi bàn tay đi hái củi, kín nước. Đó là đôi bàn tay trung thực và tình nghĩa từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập đầu, từng hiên ngang đặt lên bụng mà khẳng định cách mạng ở đây.
Bên cạnh Tnú là hình ảnh của Dít – một cô gái Tây Nguyên thời đánh Mỹ. Cũng giống như Tnú, Dít đã trưởng thành mau chóng trong những đau thương của cuộc chiến đấu chống Mỹ ngụy. Dít cũng từng bí mật tiếp tế cho cụ Mết, Tnú và thanh niên trong làng khi họ bị bọn giặc lùng bắt. Dít cũng bị bọn giặc tra tấn bằng cách bị bắt đứng ở giữa sân, lên đạn và bắn dọa khiến Dít khóc thét nhưng viên đạn thứ 10 thì Dít nín bặt, “nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Trong ánh nhìn đó có sự điềm tĩnh, bình thản đối chọi của một bản lĩnh trưởng thành sớm trong đau thương chiến tranh mà không tội ác nào có thể tiêu diệt được. Sau này Dít trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội. Hình ảnh của Dít khiến người đọc liên tưởng đến cây xà nu dù chịu đau thương dưới bom đạn nhưng vẫn vươn lên “hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” như một bản trường ca bất tận về sự nối tiếp truyền thống anh hùng của con người Tây Nguyên.
Nếu như khi Tnú nhìn thấy Dít, “trước mắt anh là Mai đó”, như một sự nối tiếp thế hệ, thì thằng bé Heng cũng chính là sự nối tiếc của Tnú trong tác phẩm này. Ngày Tnú đi liên lạc, bé Heng còn nhỏ xíu, vậy mà sau mấy năm về thăm làng, bé Heng đã lớn lên có dáng vẻ của một anh giải phóng tí hon: vai mang một khẩu trường mác, đội một cái mũ giải phóng, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, khoác chéo khẩu súng ngang lưng. Chú bé thuộc thế hệ non trẻ nhất của làng Xô Man, là hình ảnh trẻ em quen thuộc trong bất cứ một tác phẩm sử thi nào, như một cây xà nu mới lớn nhưng hứa hẹn sự dũng cảm, anh hùng như thế hệ đi trước. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh cụ Mết, Tnú, Dít, Heng cùng đứng ở ngọn đồi xà nu phóng tầm mắt nhìn thấy đại ngàn xà nu hùng vĩ như một vĩ thanh, mở ra cho người đọc hi vọng về một cuộc sống mới đầy hứa hẹn cho cộng đồng, cho những thế hệ sau của Nguyễn Trung Thành.
“Rừng xà nu” đã xây dựng được một tập thể anh hùng. Ở đó có sự nối tiếp thế hệ khiến họ vừa mang những nét chung nhất của con người Tây Nguyên dũng cảm kiên cường, vừa mang đặc trưng riêng cho những tính cách cụ thể. Cảm hứng chung của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn cùng khuynh hướng sử thi, sử dụng những biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, xây dựng nhân vật dựa trên ngôn ngữ và diễn biến tâm lý…Tất cả tạo nên một tập thể những con người giàu lòng yêu quê hương mà bất khuất, gan dạ, thấm đượm nghĩa tình. Sự phối hợp độc đáo giữa giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh và nhiều yếu tố khác đã khiến “Rừng xà nu” như một khúc ca hùng tráng giữa đại ngàng hoang dại.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 9
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 8Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 9
Về các tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, sách Văn học 12, tập Một, đã nhận định rằng: “Có thể coi đây là những bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, là bức tranh chân thực sinh động về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ”. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên. Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối ành hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.
Nhân vật Tnú: Được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách độc đáo, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sấc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô-man mài giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù. Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng chày sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với mội tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…) Răng anh đã cắt nát môi anh rồi. Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng… Chính nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực lượng để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó, hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của cả dân tộc.
Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô-man. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô-man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ: năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này. Cụ Mết là linh hồn của làng Xô-man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng. “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên !”… Từ ngày ấy, làng Xô-man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.
Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng. Trong thời gian dân làng Xô-man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, sém lóc, cày đầy quanh hai chân nhỏ… đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản…
Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai và Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi tiết trên thể hiện tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi phường của Dít, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù. Như những người con đã khuất của làng Xô-man, Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết tâm chiến đâu tiêu diệt chúng.
Dít rất giàu tình cảm thương yêu: Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tỏ tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi? (…). Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chí mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng trưởng thành, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô-man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vòa việc thiết lập những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện.
Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm, thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường, thì các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho các thế hệ nối tiếp nhau dân làng Xô-man, được khắc họa thật sinh động. Qua Rừng xà nu, ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đâu chung để giải phóng dân tộc.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 7Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 8
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đã tái hiện một giai đoạn đấu tranh của cách mạng Miền Nam rất quyết liệt trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong khuôn khổ của một truyện ngắn tác giả đã khái quát được tinh thần của thời đại một cách thật ấn tượng. Rừng xà nu là truyện của một thời đại được kể trong một đêm, nói đến rừng xà nu trước hết phải nói đến những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện.
Năm 1965, đế quốc Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở miền nam Việt Nam. Quân Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam), nhân dân thà chết chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Tại một làng ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng nổi dậy tiêu diệt kẻ thù. Trong cuộc đấu tranh đó, những phẩm chất cao quí nhất của làng Xô Man đã được thể hiện qua từng nhân vật như cụ Mết, anh Quyết, T-nú, Mai, Dít, bé Heng.
Nhân vật cụ Mết, Cụ Mết không xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm nhưng sự xuất hiện của cụ qua ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng thực sự để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt… Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng!.. ngực căng như một cây xà nu lớn…”. Nhưng không chỉ dừng lại đó nhà văn còn miêu tả về giọng nói của cụ Mết với một giọng nói “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” không chỉ minh chứng cho sức ngân vang của cụ mà còn khẳng định sự lãnh đạo và chỉ huy được đám đông làng Xô-man. Cụ là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của làng Xô Man, của cộng đồng. Cụ là cái gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc. Cụ đã thôi thúc, lãnh đạo dân làng đứng lên quật khởi.
Nhân vật anh Quyết là đại diện của Đảng, anh dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô man giác ngộ cách mạng. Anh hết lòng dạy T-nú và Mai học chữ. Chính anh đã góp phần đào tạo, giác ngộ được một anh hùng bất khuất và dũng cảm như T-nú. T-nú là người mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương bao bọc của người dân làng Xô man. Với anh, dân làng Xô man và cụ Mết đã trở thành gia đình thứ hai của anh. T-nú là người mang số phận đau thương, có cả những nỗi đau thương riêng và nỗi đau chung của dân làng Xô Man. Khi người dân làng Xô Man chịu mất mát đi anh Quyết, anh Xút, bà Nhan… thì T-nú cũng mang nỗi đau chứng kiến người thân, gia đình bị giết hại. “T-nú không cứu được vợ con”, cụ Mết nhấn mạnh nhiều lần nỗi đau ấy. Cuối cùng, T-nú còn mang nỗi đau quê hương. Do đó, anh là hội tụ của tất cả nỗi đau thương của mảnh đất Tây Nguyên. Anh hăng hái gia nhập bộ đội giải phóng để trả thù cho quê hương và những người thân.
Nhân vật Mai, một cô gái sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng. Khi bị rơi vào tay giặc và bị tra tấn dã man, cô vẫn môt mực trung thành với cách mạng, trung thành với Đảng. Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, một cô bí thư chi bộ dũng cảm, gan góc không kém gì T-nú. Dít bị giặc bắt khi ở ngoài rừng về. Bọn giặc để Dít giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ. Cái váy của Dít rách tượt từng mảng. Dít khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười thì chùi nước mắt, từ đó im bặt. Dít đứng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ lại giật lên một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Vậy là, không khủng bố được tinh thần Dít, bọn giặc đành chịu.
Bé Heng, nhân vật đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Nó không hề sợ hiểm nguy, là người dẫn đường cho T-nú trở về thăm làng mà nếu không có nó, T-nú chẳng dám đi một mình. Khi tới chỗ “ác chiến điểm”, nó nhìn T-nú “cười một cách rất liếng”, “mắt lóe lên một tia sáng nhỏ” bày tỏ niềm tự hào mãnh liệt về công cuộc cách mạng của dân làng. Mai này trưởng thành, chắc chắn bé Heng sẽ tiếp nối thế hệ cha anh.
Chiến tranh đã cướp đi sự sống của bao người, khiến bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng không vì thế mà những con người làng Xô man nhụt chí. Càng bị tra tấn, bị kìm kẹp thì ở họ lại càng sáng lên tinh thần bất khuất, kiên cường không cam chịu làm nô lệ.
Với những nhân vật trong truyện, tác giả đã cho người đọc thấy được những hình mẫu tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam trong thời kì kháng chiến, họ là những người yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hi sinh để đòi lại hòa bình cho dân tộc.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 6Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 7
Nguyễn Trung Thành có những gắn bó sâu nặng với vùng đất Tây Nguyên, trong những tác phẩm của ông, ta có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh đầy chân thực, sinh động về con người và vùng đất Tây Nguyên đại ngàn. Rừng xà nu là tác phẩm như vậy, thông qua truyện ngắn này, Nguyễn Trung Thành đã tái hiện lại không khí dữ dội nhưng đầy hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, đồng thời xây dựng lên những tượng đài người anh hùng, người con của rừng núi như cụ Mết, T nú, Dít.
Bàn về giá trị của truyện ngắn Rừng xà nu, có nhận định cho rằng: định “Nhân vật trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đều là những con người kiên cường, bất khuất của từng núi Tây Nguyên trong công cuộc chóng Mĩ cứu nước, nhưng mỗi người lại mang những nét riêng, những vẻ đẹp khó quên”. Cụ Mết, T nú, Dít là những người con của làng Xô Man, là ba thế hệ kế tiếp trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, góp phần hoàn thiện bức tranh Tây Nguyên chống Mĩ.
Cả ba nhân vật cụ Mết, T nú, Dít đều mang những vẻ đẹp, phẩm chất anh hùng, họ đều là những người con anh hùng với ý chí bất khuất, kiên cường. Không chỉ yêu làng, yêu nước, căm thù giặc sâu sắc mà họ còn mang trong mình ý thức, quyết tâm đánh giặc đầy mạnh mẽ. Giữa những nhân vật còn có sự gắn lết đặc biệt với người dân làng Xô Man, đây cũng là sức mạnh giúp họ kiên cường hơn trong cuộc chiến đấu, tạo khí thế đồng thởi trong cuộc chiến đấu chống Mĩ giải phóng đất nước. Tuy có những nét tương đồng nhưng mỗi nhân vật lại được xây dựng với nét riêng để tạo nên vẻ đẹp và cái đặc sắc cho từng nhân vật.
Trước hết, cụ Mết là già làng, người đứng đầu làng Xô Man, cụ như cây cổ thụ to lớn có thể che chở, bảo vệ cho rừng xà nu. Đó là một cụ già quắc thước với tấm ngực rộng lớn như cây xà nu lớn, cánh tay rắn chắc, mạnh mẽ như gọng kìm, tiếng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực. Cụ Mết cũng là người nuôi dưỡng, tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu ở những thế hệ sau như T nú, Dít cũng như bao người dân làng Xô Man.
Cụ Mết cũng là người tiên phong trong việc kêu gọi dân làng đồng khởi đứng lên chống giặc với chân lí giản dị và đúng đắn “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cụ Mết là người sáng suốt, thức thời trong mọi hoàn cảnh. Chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc giết hại, T nú bị giặc tra tấn, dù vô cùng đau lòng, căm phẫn nhưng cụ biết nếu như tay không xông lên thì không thể cứu được gia đình T nú. Cụ đã đi vào rừng tìm đám thanh niên, mang the gậy gộc, giáo mác để đồng khởi xông lên cứu T nú. Để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài, cụ cũng kêu gọi mọi người chuẩn bị tư trang, lương thực, rèn vũ khí.
T nú là người con anh hùng của làng Xô Man, ngay từ khi con nhỏ T nú đã bộc lộ tính cách kiên cường, gan dạ đặc trưng của con người Tây Nguyên sống giữa núi rừng hùng vĩ. Sớm được giác ngộ cách mạng với niềm tin “Cán bộ là Đảng, Đảng còn sông núi này còn”, khi nhỏ T nú đã cùng bà con dân làng nuôi giấu cán bộ, làm nhiệm vụ đưa thông tin cho cách mạng. Khi lớn lên T nú cùng bà con chiến đấu chống giặc. Cuộc sống chất chồng những đau thương, mất mát càng khiến cho ngọn lửa căm thù giặc Mĩ của T nú cháy ngùn ngụt. Với ý chí mạnh mẽ, tinh thần bất khuất T nú đã trở thành người chiến sĩ giải phóng thực thụ, đôi bàn tay bị nhựa xà nu đốt cháy của T nú đã lập lên bao chiến công, vang đến vẻ vang cho ngôi làng Xô Man giàu truyền thống yêu nước.
Dít là em gái của Mai, một cô gái trẻ giàu nghị lực, có ý thức đấu tanh từ rất sớm. Khi trưởng thành Dít đã trở thành người lãnh đạo cao nhất của làng Xô Man, bí thư chi bộ và chính trị viên xã hội. Khi con nhỏ, bị giặc bắt, dù bị tra tấn, uy hiếp tinh thần nhưng người con gái ấy vẫn tỏ ra bình thản như không. Dít cũng là người nguyên tắc và kỉ luật, khi T nú về nghỉ phép, dù cũng rất mong anh nhưng Dít vẫn kiểm tra giấy phép của T nú rất kĩ. Tuy nhiên, bên trong vẻ ngoài cứng rắn, kiên cường thì Dít cũng là người con gái giàu tình cảm, thể hiện trực tiếp cho sự xúc động, bùi ngùi khi T nú phải lên đường.
Ba nhân vật được xây dựng sinh động với những nét tương đồng về phẩm chất anh hùng, tuy nhiên mỗi nhân vật lại có những nét riêng đặc trưng cho vẻ đẹp, sức mạnh của từng thế hệ, sự xuất hiện của những con người anh hùng đã làm giàu thêm truyền thống co người dân làng Xô Man.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 6
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 5Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 6
Mảnh đất Tây Nguyên hiện lên với những tiếng đàn Tơ rưng vang vang và những cánh chim Chơ rao chao liệng dưới bầu trời. Một lần nữa Tây Nguyên lại hiện ra với hình ảnh của rừng xà nu và những con người làng Xô Man qua tác phẩm rừng xà nu của nguyễn Trung Thành. Trong truyện, các nhân vật đều hiện với những phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên nói riêng và của người Việt Nam nói chung.
Thứ ba là nhân vật Dít. Cô là em gái của Mai, khi Mai chết Dít vẫn còn là một cô bé nhưng sau đó Dít trở thành một cô chính trị viên. Trước đó Dít cũng nhân công việc liên lạc như chị gái mình và cũng đã nhiều lần bị giắc bắt và hăm dọa. Ban đầu cô gái ấy sợ sệt trước làn súng đạn bủa vây mình nhưng về sau, cô nhìn thẳng vào mặt bọn giặc với ánh mắt căm hận. Khi Tnú trở về làng, Dít rất vui mừng nhưng không quên kiểm tra giấy phép anh. Có thể nói Dít chính là thế hệ nối tiếp Mai tiếp tục làm cách mạng
Bé Heng cũng là một nhân vật đáng chú ý, bé Heng chính là bản sao của Tnú, mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng đã thông thạo đường rừng nước bước. Ngày Tnú về làng, bé Heng gọi Tnú là đồng chí xưng là tôi và dẫn dắt Tnú đi qua biết bao nhiêu con đường với biết bao nhiêu cạm bẫy. Bé Heng nhanh nhẹn, gan góc anh hùng giống như Tnú ngày xưa vậy. Trong tương lai không xa, bé Heng lại trở thành một Tnú thứ hai, một cán bộ cách mạng tài giỏi.
Các nhân vật đại diện cho từng thế hệ con người Tây Nguyên, họ tuy độ tuổi khác nhau nhưng đều có chung một lòng yêu nước và căm thù giặc. Không những thế, họ đều là những người anh hùng của Tây Nguyên mang những phẩm chất và tính cách gan góc của người Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công các nhân vật của mình và truyền tải tới người đọc nội dung của thiên truyện.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 4Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 5
Miền đất Tây Nguyên đi vào văn học đương đại Việt Nam bằng ngòi bút của Nguyễn Trung Thành và những tác phẩm thành công nhất của ông là những tác phẩm viết về đề tài Tây Nguyên. Tây Nguyên của thời kì kháng chiến chống Pháp hào hùng đi vào trang văn của Nguyên Ngọc bằng “tiểu thuyết đất nước đứng lên” và hơn một lần, Tây Nguyên trong những ngày sôi sục đánh Mỹ lại sống dậy với ngòi bút của ông bằng truyện ngắn “rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành bởi chất sử thi mà tác phẩm đạt tới. Được viết vào mùa hè năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc đấu tranh cục bộ của Mĩ ở miền nam nước ta. Một điểm cơ bản tạo nên chất sử thi của tác phẩm chính là chân dung tập thể anh hùng khắc họa đậm nét.
Quả thực nội dung cơ bản của Rừng xà nu là chuyện đánh giặc của một làng ở Tây Nguyên, làng Xô Man bất khuất. Cả làng Xô Man đã kết thành một khối, từ trong máu lửa đứng lên làm cách mạng, bảo vệ cuộc sống tự do. Già, trẻ, trai, gái, thế hệ nào, lớp nào cũng có những đóng góp xứng đáng cho cuộc đấu tranh chung.
Anh Quyết là một nhà văn cách mạng, Nguyễn Trung Thành có nhận thức rất sâu sắc về tính chất toàn diện của cuộc chiến tranh nhân dân. Sự tàn bạo của kẻ thù đã không chừa ai thì hiển nhiên không có ai đứng ngoài cuộc chiến đấu, không ai không muốn đánh giặc lập công. Mỗi sự việc tích anh hùng đều có tính chất tập thể và ngược lại, trong chiến công chung, có đóng góp độc đáo, đáng ghi nhận mỗi cá nhân anh hùng. Nói về phong trào cách mạng người miền núi, có thể nào quên được hình ảnh những người cán bộ của Đảng được giao nhiệm vụ giữ gìn và khơi lên ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do. Trong Rừng xà nu cán bộ Quyết là một hình ảnh đẹp, có nét tương đồng với hình ảnh anh Thế anh Cầm trong trong “đất nước đứng lên”, Anh Châu trong “ Vợ chồng A Phủ” trước đây trong những ngày đen tối anh đã bám trụ lại ở làng Xô Man nhen nhúm xây dựng phong trào. Anh đã duy trì niềm tin vào Đảng trong lòng đồng bào dân tộc, đã công phu bồi dưỡng giáo dục thế hệ kế tiếp. Những lời anh rủ rí với Tnú trong hốc đá giữa rừng đã trở thành lời nguyện thiêng liêng của chính Tnú: “ Sau này nếu Mỹ – Diệm giết anh Tnú phải làm cán bộ thay anh”. Khi anh Quyết hy sinh lời dặn dò của anh đã được Tnú và đồng bào Xô Man ghi lòng tạc dạ. Anh chính là người lãnh đạo tinh thần cuộc khởi nghĩa sau này của làng Xô Man.
Tây Nguyên là mọt miền đất giàu truyền thống. Hạt giống cách mạng sở dĩ được nảy mầm và phát triển tươi tốt ở đây chính là nhờ truyền thống đó. Sức mạnh của truyền thống đã được biểu hiện qua hình tượng rất sinh động là cụ Mết. Trong một bài hồi ức chính của Nguyễn Trung Thành đã viết “ ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay ông như lịch sử bao trùm, như không che lấp đi sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt,ngày càng mãnh liệt lớn, sành sỏi và tự giác lớn của các thế hệ sau”. Đúng là không thể hình dung mọi cuộc sống chiến đấu của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu đi hình ảnh như cụ Mết. Cụ là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến ở làng Xô Man, một người chỉ huy sáng suốt giàu uy lực. Mỗi lời cụ Mết nói đều mang âm vang của sự từng trải, không phải là sự âm vang cua một cuộc đời người mà còn của cả một dân tộc. Chúng mạnh mẽ và dứt khoát như “ dao chém xuống đá, rạ chém xuống đất”; “Đảng còn núi nở này còn”, “nhớ lấy ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu, chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” cụ rất có ý thức về giáo dục cho lũ con cháu. Đã nhiều đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ kể cho đám thiếu nhi, lũ con nít nghe chuyện anh Tnú niềm tự hào của nàng Xô Man và thổi vạo họ lòng yêu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng.
Những lời khen tặng của cụ tuy rất tiết kiệm nhưng có ý nghĩ động viên rất lớn. Những khi vừa ý cụ chỉ nói “được” mà không bao giờ khen tốt, giỏi, xong cũng chính cụ không giấu che niềm kiêu hãnh chính đáng về miền đất quê hương: “ không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Hình ảnh cụ Mết cầm giáo chỉ huy đám thiếu niên diệt ngọn bọn lính ngụy để cứu Tnú và bắt đầu cuộc khởi nghĩa, đẹp một cách lẫm liệt cụ xứng đáng là trụ cột của cả làng Xô Man trong những thử thách ghê gớm nhất. Do hiểu sâu sắc điều đó khi cụ tả cụ Mết, tác giả thường mượn những đạo tính của cây xà nu biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất làm đối tượng so sánh: “ ngực cụ căng như một cây xà nu lớn còn bàn tay nặng như sắt của cụ thì sằn sùi như vỏ cây xà nu. Tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt; nặng trịch, ồ ồ, dội vang trong lòng ngực tưởng như âm vọng của cả núi rừng. Hình ảnh cụ Mết thực tế đã tạo thành một cơ sở quan trọng cho cái giọng trầm hùng vang vọng nhất sử thi mà tác phẩm đã có được.
Khi làng Xô Man đã có một cụ Mết thì tất yếu nó sẽ sinh ra những người như Tnú mà hành trình số phận hết sức tiêu biểu cho cuộc sống các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ. Đời Tnú đã trải qua bạo thử thách khốc liệt thưở ấu thơ. Lúc còn là một đứa bé anh đã từng đi liên lạc cho cán bộ, từ xã xuống huyện. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được cụ Mết và dân làng cưu mang đùm bọc, khi lớn lên Tnú rất xứng đáng là một con người của bản. Tnú là cậu bé thông minh gan dạ, tháo vát, cậu bé sẵn sàng lấy đá đập đầu để tự trừng phạt mình vì tội không thuộc chữ. Học chữ không thuộc nhưng đường đi rừng thì đầu nó sáng lạ lùng. Tnú không đi theo đường mòn vì ở đó có giặc phục kích. Tnú leo lên cây cao xác định phương hướng rồi đạp gai, xé rừng mà đi. Qua sông qua suối Tnú tránh chỗ nước êm vì chỗ ấy có Mĩ Diệm hay mai phục; Tnú chọn chỗ nước chảy siết đè lên sóng thác như một con cá kình bị giặc bắt, anh gan dạ không khai nửa lời dù bị tấm lưng non trẻ của anh đã phải hứng chịu sự vùi dập tà bào, phũ phàng nhất. Sau ba năm bị giam cầm, Tnú vượt ngục trở về với dân làng. Lúc ấy anh đã thành trở thành một chàng trai cao nguyên hoàn hảo: rắn chắc, cao lớn, cường tráng như một cây xà nu lớn Tnú chan hòa trong hạnh phúc bên Mai dịu dàng và đứa con trai đầu lòng giống bố như đúc.
Nhưng rùi hạnh phúc của Tnú và Mai vừa bùng nở đã bị quân giặc trà đạp vũ phàng. Câu chuyện đau thương về cuộc đời Tnú thật sự bắt đầu khi lũ ác ôn kéo về làng ngăn chạn những bàn tay cầm vũ khí chống lại chúng. Để truy tìm Tnú, bọn giặc dùng ngón đòn độc hiểm cuối cùng: nó bắt Mai và đứa con Tnú không cứu được vợ con. Tận mắt anh phải nhìn cảnh Mai và đứa con chưa đầy tháng chết thê thảm dưới cây gậy sắt của quân giặc. Lúc ấy lòng căm hờn đã biến hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn anh đã lao vào lũ giặc với sức mạnh hùng thiêng anh không biết đã làm gì, chỉ thấy thằng giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy và nhiều người.
Thế nhưng Tnú không cứu được Mai kiên cường kiêu hãnh có thừa không bao giờ chịu khuất phục cường quyền trong lồng ngực anh chan chứa yêu thương và sức mạnh quân thù. Nhưng ngần ấy phẩm chất vẫn chưa đủ để bảovệ yêu thương và hòn máu mủ của đời anh. Vì sao vậy? vì anh chỉ có hai bàn tay không giữa mọt lũ giặc ác ôn khát máu đầy vũ khí, chỉ hai bàn tay không anh không cứu được vợ con và bản thân mình, chính cụ Mết đã rút ra kết luận quan trọng ấy. Khi kẻ tù đã cầm vũ khí mà mình tay không sẽ bị hủy diệt. Tấm thảm kịch đã diễn ra: Mười đầu ngón tay của Tnú bị đốt, giữa cao trào đau thương già làng Tây Nguyên đã khắc ghi vào lòng các thế hệ một chân lý “ chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” khi trong tay người già người trẻ, người đàn ông, người đàn bà đã có một cây giáo, một cây mác, một cây rụ, tình hình sẽ khác: lửa xà nu sẽ tắt trên mười đầu ngón tay của Tnú, mười thằng giặc phải đền mạng, lửa đuốc xà nu soi rõ mười cái xác giặc ngổn ngang bên đống lửa lớn trên tràn nhà. Rừng Xô Man ào ào rung động “ tiếng chiêng nổi lên và nổi cháy khắp rừng”.
Sự sống hồi sinh từ sự quật khởi đáp trả sự bạo tàn Tnú từ đau thương vụt lớn lên ra nhập vào lực lượng quân giải phóng, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ sự sống trên quê hương để trả thù cho những người dân Xô Man đã bị giặc giết, trả thù cho bà Nhan, anh Sút, anh Quyết, cho Mai, cho đứa con của anh, cho mười đầu ngón tay anh. Bằng bàn tay mười đầu ngón cụt của mình anh đã lập được chiến công, đã giết được một thằng ác ôn và thằng Dục. Đối với anh bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục – tên đã giết vợ con anh và làm cho bàn tay anh không còn lành lặn khác họa nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay anh, hai bàn tay mà mỗi ngón chỉ còn hai đốt, vẫn biết kể cho chúng ta nghe một người. Đó là bàn tay đau thương, bàn tay căm thù và bàn tay chiến thắng. Đó là bàn tay gan lì tuổi nhỏ, dám cầm cả cục đá đập vào trán khi thấy mình chưa học được chữ để sau này làm cán bộ giỏi. Đó là bàn tay yêu thương – Mai đã cầm trong ngày Tnú vượt ngục con tum trở về. Bàn tay ấy là chiến tích căm hờn về tội ác của kẻ thù và cũng là bàn tay chiến thắng. Nói về cuộc đời và cuộc sống của Tnú. Tác giả đã sử dụng một hình thức kể chuyện rất thích hợp. Lời kể của tác giả đã hoàn lẫn lời kể của cụ Mết và hồi tưởng của Tnú cách tự nhiên khiến cho sự tích của một thời hiện đại được lịch sử hóa, ngân lên hết cung bậc hào hùng, mê say của nó, nó có khả năng kích thích nôi cuốn rất mạnh. Thỉnh thoảng giữa câu chuyện, tác giả nhắc đến hình ảnh rừng xà nu ào ào rung động tạo lên không khí cộng hưởng sôi động và đầy sảng khoái.
Đọc rừng xà nu, ta không thể nào quên được nét mặt cương nghị rắn roit của Dít, đó cũng là một hình ảnh đẹp làm phát triển thêm chân dung tập thể anh hùng Dít có nhiều nét gần gũi với chị là Mai nhưng cũng có nhiều nét …. Phải chăng hoàn cảnh chiến đấu đã khiến chị phải dấu đi những nét dịu dàng đằm thắm nhưng rồi đến viên đạn thứ mười Dít chùi nước mắt, im bặt, bình thản nhìn bọn giặt. Có thể lý giải thế nào là sự cảm biến mau lẹ lạ lùng này. Đó không phải là sự chấn tĩnh bình thường, là sự lớn vượt mau lẹ của người trước thử thách. Dân tộc ta khi trong những ngày đánh Mĩ sôi động cô bé Dít ngày nào đã trưởng thành chị Dít bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội đầy uy tín. Chú bé Heg cũng đã đem chị Dít ra nhắc nhở Tnú “ đừng uống nước lạnh”, còn mọi người trong làng Xô Man thì đợi Dít canh giấy của Tnú sau mới yên tâm. Tnú được phép của chỉ huy cho về thăm nhà. Những chi tiết ấy thoạt đọc qua tưởng không ý nghĩa gì lắm mà kì thực quá sâu sắc, ý thức của một làng đánh giặc có tổ chức, quy củ. Dít đã trở thành một người đáng tin cậy của tập thể rất xứng đáng với miền đất đã có những người như cụ Mết và Tnú.
Trong tác phẩm,hình ảnh nhanh nhẹ hoạt bát và ngây thơ cuả chú bé Heg dù xuất hiện thoáng qua cũng đã để lại những ấn tượng tốt đẹp cho người đọc tin tưởng vào cuộc đấu tranh của dân tộc mình khi có những người như thế. Được tắm mình trong máu cách mạng, một lớp thiếu niên đã trưởng thành tiếp bước con đường của cha anh. Chưa ai hình dung nổi chú bé Heg kia lớn lên sẽ lập được nhữngchiến công gì nhưng ta biết chắc chắn những người như chú sẽ không làm hổ mặt làng Xô Man giàu truyền thông, chú sẽ như cây xà nu lớn lên vượt qua bom đạn của kẻ thù, góp phần làm nên màu xanh trường cửu của những rừng Xà Nu tít tắp chạy đến chân trời.
Xây dựng sôi động chân dung tập thể anh hùng là thành công, nổi bật của Nguyễn Trung Thành trong Tây Nguyên “ Rừng xà nu” với nó, tác phẩm đã phản ảnh khá sâu sắc khí thế cách mạng của nước ta trong công cuộc đối đầu lịch sử những năm 60. Ngày nay đọc lại tác phẩm vẫn còn sức sống hấp dẫn mạnh mẽ với chúng ta, giúp ta hiểu rõ hơn; vì sao Việt Nam đã trụ vững và chiến thắng trong công cuộc kháng chiến lâu dài gian nan ấy.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 4
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 3Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 4
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đã tái hiện một giai đoạn đấu tranh của cách mạng Miền Nam rất quyết liệt trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong khuôn khổ của một truyện ngắn tác giả đã khái quát được tinh thần của thời đại một cách thật ấn tượng. Rừng xà nu là truyện của một thời đại được kể trong một đêm, nói đến rừng xà nu trước hết phải nói đến những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện.
Bé Heng, nhân vật đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Nó không hề sợ hiểm nguy, là người dẫn đường cho T-nú trở về thăm làng mà nếu không có nó, T-nú chẳng dám đi một mình. Khi tới chỗ “ác chiến điểm”, nó nhìn T-nú “cười một cách rất liếng”, “mắt lóe lên một tia sáng nhỏ” bày tỏ niềm tự hào mãnh liệt về công cuộc cách mạng của dân làng. Mai này trưởng thành, chắc chắn bé Heng sẽ tiếp nối thế hệ cha anh. Chiến tranh đã cướp đi sự sống của bao người, khiến bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng không vì thế mà những con người làng Xô man nhụt chí. Càng bị tra tấn, bị kìm kẹp thì ở họ lại càng sáng lên tinh thần bất khuất, kiên cường không cam chịu làm nô lệ.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 2Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 3
Nguyễn Trung Thành là nhà văn quân đội, quê ở Quảng Nam. Năm 1950, đang học bậc trung học phổ thông, ông gia nhập quân đội và lên hoạt động ở chiến trường chính của Liên khu V (Tây Nguyên). Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông làm phóng viên báo Quân nhân dân Liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Đó cũng chính là lí do dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu (Giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, 1965). Đặc biệt, ở truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn thể hiện rất thành công phẩm chất anh hùng của các nhân vật như cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng…
Cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu ở miền Nam nước ta (1965). Thủy quân lục chiến Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam). Kẻ thù quyết tiêu diệt bằng được lực lượng cách mạng. Chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn – nhất là chém giết không thương tiếc – để gây đau đớn, tổn thất nặng nề cho đồng bào miền Nam. Do đó, muôn người như một, thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân dân miền Nam đứng dậy dùng bạo lực trả lời bạo lực.
Tại một làng nhỏ ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng “tức nước vỡ bờ” nên đồng tâm hiệp lực nổi dậy tiêu diệt kẻ thù: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” (lời nhân vật cụ Mết trong truyện). Trong cuộc dấu tranh đó, những phẩm chất cao quý nhất của dân làng Xô Man đã được thể hiện qua từng nhân vật khác nhau. Trước hết là nhân vật cụ Mết. Cụ Mết là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ cha anh đã trải nghiệm nhiều trong đấu tranh, giàu kinh nghiệm khi đối diện với quân thù (từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ). Cụ là người mưu trí, sáng suốt. Cụ là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của làng Xô Man, của cộng đồng. Chính cụ đã tìm ra chân lí dùng bạo lực để đấu tranh tiêu diệt quân cướp nước: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cụ là cái gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc. Cụ đã thôi thúc, lãnh đạo dân làng đứng lên quật khởi: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.
Kế đến là nhân vật anh Quyết. Anh là đại diện của Đảng, là linh hồn của cuộc chiến đấu. Anh đã đến, dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô Man giác ngộ cách mạng. Sống ở rừng sâu nước độc nhưng anh không ngại khổ nhọc. Anh hết lòng dạy Tnú và Mai học chữ… Anh có quan niệm rất đúng đắn: “Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi”. Chính anh đã góp phần đào tạo, giác ngộ được một anh hùng bất khuất Tnú trong tương lai.
Sau đó là nhân vật Tnú. Anh tiêu biểu cho số phận và ý chí của dân làng. Anh hăng hái đi đầu trong phong trào đồng khởi, hiên ngang đối diện với kẻ thù, với cái chết. Khi bị giặc bắt, lấy ra một nhúm giẻ đã tẩm dầu xà nu, quấn giẻ lên mười đầu ngón tay Tnú, lấy cây lửa đốt, Tnú không kêu lên một tiếng nào mà còn trợn mắt nhìn kẻ thù trừng trừng: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên (…). Tnú không thèm, không thèm kêu van”. Hành động chịu đựng ấy rất dũng cảm, ngoan cường, gan góc. Mặc dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt nhưng Tnú vẫn vượt lên đau đớn, bi kịch cá nhân, hăng hái gia nhập bộ đội Giải phóng để trả thù cho quê hương và những người thân.
Nhân vật Mai đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên. Tuy là nữ giới nhưng sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng. Phút lâm nguy, khi giáp mặt với bầy lang sói hung tợn, cô chẳng chút run sợ. Cô “ngẩng đôi mắt lớn nhìn thằng Dục” để tỏ rõ thái độ căm thù. Thằng Dục xem cô là “con mọi cộng sản”, “con cọp cái”, là cơ sở để “dụ được cọp đực trở về”. Nó cầm một cây sắt dài tra tấn đánh đập mẹ con Mai. “Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập”. Đến khi trút hơi thở cuối cùng dưới bàn tay đẫm máu của bọn mật người dạ thú cô vẫn một mực trung thành với cách mạng, không khai báo nửa lời.
Nhân vật Dit cũng như Mai, là đại diện cho thế hệ chủ lực đánh Mĩ ở Tây Nguyên. Là cô bí thư chi bộ cũng dũng cảm, gan góc không kém gì Tnú. Khi cả làng bị giặc ở đồn Bắc Hà bao vây, không ai lọt ra được, ngoại trừ lúc ấy Dit còn nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Dit bị giặc bắt khi ở ngoài rừng về. Bọn giặc để Dit giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ. Cái váy của Dit rách tượt từng mảng. Dit khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười thì chùi nước mắt, từ đó im bặt. Dit đứng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ lại giật lên một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Vậy là, không khủng bố được tinh thần Dit, bọn giặc đành chịu! Còn khi chị Mai và đứa con bị giặc giết chết một cách dã man, mọi người, kể cả cụ Mết đều chứa chan nước mắt nhưng Dit vẫn “lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh”. Không phải là cô không thương chị, thương cháu nhưng đó là cử chỉ nuốt hận vào lòng, nuôi khôi hận ngày một khôn lớn theo lứa tuổi của cô để một ngày kia, có cơ hội sẽ rửa thù! Khi lớn lên, cô trở thành bí thư chi bộ xã kiên cường.
Nhân vật bé Heng dại diện cho vẻ đẹp của thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Bé Heng “cũng ít nói như những người dân làng Xô Man” nhưng bên trong chắc gì không âm ỉ mối thù giặc Mĩ như thế hệ đàn anh? Nó không hề sợ hiểm nguy. Nó là người dẫn đường cho Tnú trở về thăm làng mà nếu không có nó, Tnú chẳng dám đi một mình. “Con đường ấy chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút gặp một giàn thò (một loại bẫy) chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chặt gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Khí tới chỗ “ác chiến điểm”, nó nhìn Tnú “cười một cách rất liếng”, “mắt lóe lên một tia sáng nhỏ” bày tỏ niềm tự hào mãnh liệt về công cuộc cách mạng của dân làng. Mai này trưởng thành, chắc chắn bé Heng sẽ tiếp nối thế hệ cha anh.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 1Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 2
“Tây Nguyên ơi! Hoa rừng bao nhiêu thứ
Cánh hoa đẹp nhất rừng
Tây Nguyên ơi! Anh có nhớ buôn làng
Nhớ người con gái…
… Nhớ cánh hoa Pơ-lang đẹp nhất rừng Tây Nguyên…”
(Ca khúc “Em là hoa Pơ-lang” – Đức Minh)
Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mĩ? Ai đã từng biết hoa Pơ-lang báu vật của Trời có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm ngát hàng vạn năm được nói đến trong “Bài ca chàng Đam Săn”? Tiếng hát ấy còn đem đến cho ta bao xúc động bồi hồi khi nghĩ tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một kiệt tác viết về đề tài Tây Nguyên thời đánh Mĩ.
Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc thời đánh Mĩ. Truyện “Rừng xà nu” của ông lần đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân giải phóng miền Trung. Trung Trung bộ, số 2 năm 1965. Truyện mang đậm tính sử thi, gợi lên một không khí núi rừng thiêng liêng huyền thoại. Cuộc đấu tranh vũ trang của dân làng Xô man chống Mĩ – Diệm diễn ra vô cùng ác liệt đầy máu và nước mắt, sáng bừng ngọn lửa và chiến công. Những con đường, dốc núi, bờ suối chằng chịt hầm chỏng, hố chông, giàn thò lưỡi “sắc lạnh”. Nhà ưng nơi tụ hội của người Strá đã có lúc biến thành pháp trường, chiến trường dữ dội, bi tráng.
Cả dân làng Xô Man, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, ai cũng có trong tay một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, cậy rựa sáng loáng mài bằng đá mài núi Ngọc Linh do anh Tnú gùi về, ai không có giáo mác thì có 500 cây chông. Mỗi người dân là một chiến sĩ, một dũng sĩ nhen nhóm bằng ngọn lửa cách mạng và niềm tin mà anh Quyết cán bộ Đảng hoạt động bí mật đem lại cho dân làng Xô Man: “Đánh Mĩ phải đánh lâu dài”, “cán bộ là Đảng; Đảng còn, núi nước này còn”,…
Trong những năm dài đen tối khi quân Mĩ – Diệm kéo tới, suốt đêm ngày, chó của nó và súng của nó “sủa vang cả rừng”, thì dân làng Xô Man vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế, bảo vệ cán bộ Đảng. Anh Xút bị giặc bắt treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc chặt đầu, cột tóc treo đầu súng. Nhưng chẳng ai sợ! Người già, trẻ con, Mai và Tnú,… lại thay nhau vào rừng nuôi giấu, bảo vệ cán bộ. Suốt 5 năm trời, chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giặc giết trong rừng của làng Xô Man. Đó là niềm tự hào, và đó là phẩm chất anh hùng, trung dũng của những người Strá.
Mỗi người dân làng Xô Man là một chiến sĩ. Cụ Mết già làng, oai phong lẫm liệt. Mắt sáng và xếch. Râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Đã 60 tuổi mà tiếng nói vẫn ồ ồ vang dội trong lồng ngực! Một lời khen “được” của ông cụ làm cho cả làng ai cũng hả dạ. Bàn tay nặng trịch “như một kìm sắt”. Lúc cụ nói, mọi người đều im bặt, trẻ con im lặng thin thít. Cụ Mết đầy uy tín, là một thủ lĩnh quân sự tài ba, quyết đoán. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đâu, cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đêm đêm thức mài vũ khí, ban ngày đi phát hết các rẫy cũ, trồng pom-chu và sắn xanh mượt cả núi rừng. Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất giữa cái sống và cái chết, cụ Mết đã chỉ huy đội du kích từ trong rừng bất ngờ xông lên nhà ưng tiêu diệt lũ ác ôn. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: “Chém! Chém hết!”. Những cây rựa sáng loáng vung lên. Dưới lưỡi mác của cụ Mết, thằng Dục chỉ huy nằm gục trên vũng máu. Mười tên giặc bị giết chết, xác ngổn ngang quanh đống lửa xà nu giữa nhà ưng. Chính ” đêm ấy”, tiếng chiêng nổi lên, lửa cháy khắp rừng. Và “cả rừng Xô Man ào ào rung động”. Chính đêm ấy, cụ Mết già làng, người anh hùng bộ tộc trong tư thế lẫm liệt của người chiến thắng đã truyền hịch đánh Mĩ – Diệm vang vọng núi rừng: “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.
Cụ Mết trong truyện “Rừng xà nu” được miêu tả và ngưỡng mộ như một vị anh hùng dân tộc. Cụ đã thắp sáng ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng vì chân lí lịch sử: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Cụ đã nhắc nhở mọi người Strá phải giữ lấy truyền thống “thương núi, thương nước” kể lại cho con cháu nghe sau này. Nhân vật cụ Mết, một già làng, một lão du kích phi thường là một thành công đặc sắc của Nguyễn Trung Thành trong nghệ thuật khắc họa tính cách anh hùng sử thi huyền thoại.
Tnú là một trai làng dũng mãnh, là niềm tự hào của bà con dân làng Xô Man. Cụ Mết đã nói về anh với tất cả tình yêu thương, tự hào: “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Cuộc đời Tnú đầy máu và nước mắt như bao cuộc đời của người dân làng Xô Man dưới súng đạn của Mĩ – Diệm. Con đường chiến đấu của Tnú là con đường quật khởi của quê hương anh. Hai lần Tnú đi bộ 3 ngày lên núi Ngọc Linh để lấy một xà lét đá trắng về làm phấn, lấy một gùi đá mài đem về mài vũ khí, hành động ấy nói lên lòng khao khát ánh sáng cách mạng và tự do của anh. Phẩm chất anh hùng của Tnú được tôi rèn trong máu lửa chiến tranh. Thuở nhỏ, Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ anh Quyết, cán bộ “nằm vùng” để học chữ, với niềm tin sắt đá: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Đi giao liên, lúc thì Tnú “xé rừng mà đi” lọt qua các vòng vây của giặc, lúc thì anh cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình, tạo nên sự bất ngờ. Bị giặc bắt, Tnú nuốt ngay thư bí mật. Bị giặc tra tấn dã man, bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy vết chém, anh vẫn bất khuất, hiên ngang giữ vững lòng trung thành với cách mạng.
Khi làng Xô Man quật khởi đứng lên mài vũ khí chống Mĩ – Diệm thì Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với bọn giặc ở đồn Đắc Hà, anh là “con cọp… làm loạn rừng núi”… Tnú căm thù sôi sục quân giặc khát máu. Mắt anh trở thành “hai cò lửa lớn” khi lũ ác ôn giáng “trận mưa cây sắt” xuống vợ con anh. Anh coi bọn thằng Dục là “đồ ăn thịt người!”. Tnú đã nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con, “hai cánh tay rộng lớn như hơi cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Hình ảnh Tnú bị giặc tra tấn, đốt cháy mười ngón tay thành mười ngọn đuốc, mắt anh trừng trừng, răng anh cắn nát môi, nghe lửa cháy trong lồng ngực… “anh không thèm kêu van”, đã làm cho chúng ta vô cùng cảm phục. Anh đã nêu cao một tư thế lẫm liệt hiên ngang. Con người anh tưởng như được đúc bằng thép! Khí phách của Tnú là khí phách của người anh hùng sử thi. Tình tiết Tnú xông xuống hầm ngầm giặc, không dùng súng, không dùng dao mà chỉ giết thằng chỉ huy ác ôn bằng mười ngón tay, ngón nào cũng bị cháy mất một đốt – đã nói lên ý chí căm thù giặc không bao giờ nguôi trong lòng anh. Lòng căm thù đã cho Tnú sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
Nguyễn Trung Thành đã khắc hoạ đôi bàn tay Tnú để tô đậm phẩm chất anh hùng của đứa con yêu làng Xô Man. Nếu ngọn lửa thần A-nhi đã soi sáng lòng kiên trinh của nàng Si-ta trong sử thi Ra-ma-ya-na, thì ngọn lửa xà nu trên mưòi ngón tay đã làm sáng bừng lên dũng khí và tinh thần bất khuất của nhân vật Tnú anh hùng. Dưới ngòi bút Nguyễn Trung Thành, nhân vật Tnú mang vẻ đẹp huyền thoại.
Mai và Dít là hình ảnh người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai học chữ rất giỏi, ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm được toán hai con số. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ, và chị đã bất khuất hi sinh trước trận mưa cây sắt của thằng giặc khát máu. Dít là em gái của Mai. Cái mũi hơi tròn, đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Lớn lên, Dít càng giống Mai. Dít cũng bị giặc bắt khi Dít đi vào rừng tiếp tế cho đội du kích. Lũ giặc đã biến Dít thành “tấm bia sống”, bắn sượt qua tai, sém tóc, váy rách tượt từng mảnh. Từ viên đạn thứ mười trở đi, Dít chùi nước mắt, im bặt, “nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng!”. Thật là gan dạ, lẫm liệt. Chỉ 3 năm sau, Dít đã trở thành Bí thư chi bộ kiêm Chính trị viên xã hội, linh hồn cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Có thể nói Mai và Dít tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đã gắn bó cuộc đời mình với sự sống còn, với đau thương và uất hận, với nhục và vinh của dân tộc trong thời đánh Mĩ.
Đọc truyện “Rừng xà nu”, ta không thể nào quên được bé Heng, mặc dù tác giả chỉ phác hoạ một vài nét. Đó là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc mọi con đường, những hầm chông, những giàn thò, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay mình. Người nhỏ bé, đóng khố, áo bà ba dài phết đít, đầu đội một cái mũ sụp xin được của anh Giải phóng quân nào đó. Một khẩu súng trường mát đeo chéo ngang lưng “ra vẻ một người lính thực sự”. Khi thì Heng nhắc Tnú không được uống nước lã. Khi thì Heng giới thiệu về chị Dít. Heng giục Tnú đi nhanh, “sắp tối rồi!”. Nó hất hàm ra hiệu, thân mật nói với Tnú: “Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc nữa à!”. Em báo cho Tnú biết: “Chông đấy! Có chông đấy!…”. Heng tháo cây súng chống xuống đất và gọi to; “Người già ơi, có khách đấy!”. Heng chỉ là người dẫn đường, chỉ là người dẫn chuyện, xuất hiện trong khoảnh khắc. Thế mà đầy ấn tượng, đó là cái tài của Nguyền Trung Thành trong miêu tả nhân vật. Bé Heng đã trưởng thành cùng cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man. Con người em đã hình thành bao phẩm chất anh hùng. Em là một cây xà nu, một cây con mới mọc “vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…” trong bom đạn giặc!
Thời kháng chiến, cây tre, cây dừa, cây đước đã được một số nhà văn, nhà thơ dành cho một địa vị sang trọng: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.Tre hi sinh để bảo vệ con người” (“Cây tre Việt Nam” – Thép Mới). Với Nguyễn Trung Thành, cây xà nu, một loại cây “man dại mà cao quý đáng yêu” đã trở thành một biểu tượng, một nhân vật mang bao phẩm chất tốt đẹp, anh hùng. Trong truyện, cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu, cành lá xà nu, ngọn xà nu, nhựa xà nu, lửa xà nu,… được nhắc đến rất nhiều lần, đầy ấn tượng. Cây xà nu là cảnh quan, là vẻ đẹp hùng vĩ của làng Xô Man: “… trông ra xa, hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Đồi xà nu trùng điệp ấy gợi cho ta liên tưởng về người người lớp lớp trong thế trận chiến tranh nhân dân, trong cuộc diễu binh hùng vĩ. Mưa đại bác của giặc giội xuống suốt đêm ngày đã hơn ba năm nay, cây xà nu cùng chung số phận đau thương tang tóc với người Strá. Hàng vạn cây xà nu không có cây nào không bị thương.
Đại bác giặc chặt đứt ngang nửa thân mình, cây xà nu “đổ ào ào như một trận bão”. Một cảnh tượng dữ dội, một tư thế lẫm liệt hiên ngang. Cây xà nu bị thương, nhựa ứa ra tràn trề “đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Cũng như những em bé – những nạn nhân trong chiến tranh, những cây xà nu vừa lớn ngang tầm ngực, nhựa còn trong, dầu còn loãng, bị trúng đạn, vết thương cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Cây xà nu được nhân hóa; nỗi đau của rừng xà nu mãi mãi là vết thương lòng của con người trong nhiều năm tháng. Cây xà nu có một sức sống phi thường, vô cùng mãnh liệt. Nó là loại cây ham ánh sáng mặt trời nhất trong rừng. Ở một gốc cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.
Một so sánh rất đẹp thể hiện một tư thế hiên ngang dũng mãnh trong lửa đạn. Nhựa xà nu “thơm mỡ màng”, “thơm ngào ngạt”, đó là phẩm chất cao quý để lại cho đời. Rừng xà nu, đồi xà nu mang tầm vóc dũng sĩ. Nếu cây tùng trong thơ Ức Trai có tài đống lương “nhà cả đòi phen chống khỏe thay”, để lại hổ phách, phục linh “dành còn để trợ dân này”, thì rừng xà nu đã hai ba năm nay, “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Qua đó, ta thấy thời chiến tranh, cây cỏ đã cùng con người chung sức, chung lòng đánh giặc để giữ làng giữ nước. Đọc truyện “Rừng xà nu”, một ấn tượng sâu sắc đối với mỗi chúng ta là đống lửa xà nu rực cháy trên nhà ưng đã làm cho lưỡi mác của cụ Mết, mũi giáo của đội du kích thêm sáng loáng, đã soi tỏ xác lũ ác ôn ngổn ngang trên những vũng máu. Cây xà nu, lửa xà nu đã cùng dân làng Xô Man chan hòa trong niềm vui thắng trận.
Cụ Mết đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”. Đó là lời thách thức! Đó là niềm tự hào của già làng, của người dân làng Xô Man về rừng xà nu yêu quý. Nguyễn Trung Thành đã viết nên những trang văn xuôi tráng lệ nhất, mang âm hưởng anh hùng ca về cây xà nu. Cây xà nu là một hình tượng kì vĩ, cũng là một nhân vật sử thi thần kì.
Truyện “Rừng xà nu” là một kiệt tác văn chương. Cảm xúc dồn nén, sự kiện dồn nén, đúng là “truyện của một đời người được kể trong một đêm, đó là cái đêm dài như cả một đời người”. Từ cây xà nu đến con người, tất cả đều phi thường, đều mang theo bao phẩm chất anh hùng. Tất cả đều tượng trưng cho khí phách và sự sống phi thường của con người, của thiên nhiên núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Có người đã ca ngợi thiên truyện “Rừng xà nu” là “khúc tráng ca về tự do” thời đánh Mĩ.
Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” bài số 1
Các nhân vật được xây dựng sinh động, hấp dẫn, mang vẻ đẹp riêng của từng người. Vẻ đẹp ấy lại hòa vào nhau để làm nên vẻ đẹp chung của con người Tây Nguyên chống Mĩ và lắng sâu vào lòng người đọc với ấn tượng không thể phai mờ.
Đăng bởi: Mỹ Quyên
Từ khoá: 10 Bài phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
10 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Việt Và Chiến Trong “Những Đứa Con Trong Gia Đình” Của Nguyễn Thi
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 10
Nguyễn Thi là nhà văn được mệnh danh là “Nhà văn Nam Bộ”. Tên tuổi của ông đã gắn liền với những tác phẩm tên tuổi như “Người mẹ cầm súng”, “Những đứa con trong gia đình”… Nhân vật của Nguyễn Thi là những con người yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và có tinh thần chiến đấu rất cao – con người dường như sinh ra để đánh giặc. Việt và Chiến trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” là những con người như thế.
Truyện “Những đứa con trong gia đình” được Nguyễn Thi viết năm 1966 khi ông đang công tác tại tạp chí Văn Nghệ quân giải phóng. Truyện kể về nhân vật Việt, trong một trận chiến ác liệt tại một cánh rừng cao su. Việt bị thương nặng và lạc mất đồng đội. Giữa những lần ngất đi tỉnh lại , dòng hồi ức đã đưa Việt về với những kỷ niệm gia đình (ông nội, ba má , chú Năm, chị Chiến,)… ba ngày sau đó, đồng đội tìm được Việt và đưa về bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần được bình phục. Đội trưởng Tánh giục Việt viết thư kể cho chị Chiến về chiến công của mình. Việt định viết nhưng nghĩ thành tích của mình chưa xứng đáng.
Ở hai chị em Việt và Chiến có những nét tính cách chung: Một là: Hai chị em cùng sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ông Nội, chú Năm, ba má Việt, chị Hai của Việt đều là những người cán bộ cách mạng trung kiên. Gia đình của chị em Việt được ví như một dòng sông mà Việt và Chiến là khúc sông sau của đại gia đình cách mạng ấy. Họ đều có tình cảm gia đình sâu nặng. Việt nhiều lần ngất đi tỉnh lại nhưng mỗi lần tỉnh lại anh lại nhớ về gia đình.
Hai là: chị em Việt có chung mối thù với bọn Mỹ – Ngụy. Bởi gia đình họ phải chịu nhiều mất mát đau thương do bọn ác ôn gây ra . Ông nội hi sinh trong chiến đấu, ba Việt thì bị giặc chặt đầu, má Việt chết vì bom đạn của giặc. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ và có cùng nguyện vọng: “được cầm súng đánh giặc để trả thù cho ba má”. Vì vậy, đêm ghi danh tòng quân, cả hai đều giành nhau đi bộ đội. Sau khi được ghi tên tòng quân, tối về, cả hai chị em đều chung nhau quyết tâm đánh giặc. Đều quyết tâm “Đi xa nhà thì ráng học chúng bạn… thù ba má chưa trả” thì không được bỏ về. Chị Chiến thì thề thốt dữ dội hơn “Nếu giặc còn thì tao mất”. Ba là: Hai chị em Chiến – Việt đều có những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ con: giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến của giặc và giành nhau ghi tên tòng quân.
Chiến mang vóc dáng của má: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to và chắc nịch”. Đó là vẻ đẹp của con người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Tuy vậy, chị cũng rất ư là nữ tính. Đi đánh giặc còn mang theo lương gược, giữa mỗi trận đánh lại đem ra soi mình. Chiến đặc biệt giống má ở cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội: Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà y hệt má. Chính Việt nhận ra chị “nói nghe in như má vậy”. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói với ra , đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị giống in má, có khác chỉ là ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi” mà thôi.
Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng đã lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Mà đúng thật, chị Chiến sắp đặt việc nhà đâu ra đó. Từ việc giao lại ruộng đất cho chi bộ, việc gửi cái nhà cho lớp học, việc làm đám giỗ cho ba má, việc gửi bàn thờ ba má qua nhà chú Năm… chị Chiến đều tính toán, sắp đặt ổn thỏa. Đúng như lời chú Năm nhận xét “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng. Gọn bề gia thế đặng bề nước non”.
Chiến hơn Việt chừng một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn: Chiến có thể bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ sáng đến xế chiều. Tính cách “người lớn” ở Chiến còn thể hiện ở sự nhường nhịn. Tuy có lúc giành nhau với em tranh công bắt ếch, bắn cháy tàu giặc, giành đi tòng quân… nhưng cuối cùng bao giờ chị cũng nhường em hết trừ việc đi tòng quân (vì chị thương em, muốn giành sự hi sinh về mình). Tóm lại, Chiến là cô gái tiêu biểu cho người phụ nữ miền Nam rắn rỏi, đảm đang, anh hùng. Chị cũng giống như những con người miền Nam quả cảm: chị Sứ, chị Út Tịch, chị Trần Thị Lý…
Việt – người thanh niên với những phẩm chất hồn nhiên. Hồi còn ở nhà, cái gì Việt cũng giành với chị. Từ việc tranh giành với chị chuyện bắt ếch nhiều ít, chuyện bắn cháy tàu giặc trên sông Định Thủy, chuyện giành nhau đi tòng quân… Đến tuổi trưởng thành, đi đánh giặc nhưng lúc nào Việt cũng quàng cây ná thun vào cổ. Khi bị thương nặng trong đêm tối, không sợ chết mà sợ bóng đêm và sợ ma. Là con trai, lại là em quen được chiều chuộng nên mọi việc Việt đều “ỷ lại cho chị”, phó mặc tất cả cho chị. Nghe chị bàn việc gia đình một cách trang nghiêm, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì” và cứ ầm ừ cho qua, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay rồi ngủ quên lúc nào không biết”.
Việt có tình cảm với gia đình rất sâu sắc: Khi tỉnh dậy lần thứ nhất, Việt nhớ và thương má “Ước gì bây giờ lại được gặp má… má sẽ ghé lại xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để dưới xuồng lên cho Việt ăn”. Việt thương chị Chiến, Việt nhớ lại cái đêm trước ngày đi tòng quân, nhớ từng lời đối thoại, nhớ cả cái cảnh hai chị em khiêng bàn thờ má qua nhà chú Năm. Thương nhất là lúc “Nghe tiếng chân chị bịch bịch phía sau, Việt thấy thương chị lạ”. Việt thương chú Năm, nhớ giọng hò “đục và tức như gà gáy” nhưng lại “cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang… cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”.
Việt mang trong mình phẩm chất người anh hùng. Lúc còn nhỏ, Việt đã cùng chị Chiến cùng địa phương quân bắn cháy tàu giặc trên sông Định Thủy được chú Năm ghi chiến công vào cuốn sổ gia đình. Vào trận mạc, Việt chiến đấu dũng cảm, diệt được xe bọc thép của giặc. Tuy bị thương nặng, hai mắt không nhìn thấy gì, “hai tay, vai, đầu, chân đang đau điếng và rỏ máu”, người sắp lả đi vì đói khát, Việt vẫn trong tư thế đường hoàng chững chạc của người chiến sĩ kiên cường, sẵn sàng tiêu diệt giặc: “Tao sẽ chờ mày… Cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày… Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Dù bị thương, dù tỉnh dù mê, dù kiệt sức vẫn sẵn sàng chiến đấu. Tay việt chỉ còn một ngón cử động được, lúc nào Việt cũng bỏ vào cò súng sẵn sáng chiến đấu.
Việt mang trong mình vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: trẻ trung, gan dạ, đáng yêu nhưng cũng rất mực anh hùng dũng cảm. Việt đã tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống đánh giặc cứu nước của gia đình và đó cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Thi đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng trong thời đại đánh Mỹ. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, chuyện được kể qua dòng hồi ức đứt nối chập chờn nhưng lại rất chân thật, cảm động. Bút pháp sử thi hào hùng, ngôn ngữ trần thuật hấp dẫn đậm sắc thái Nam Bộ…
Những đứa con trong gia đình đã rất thành công khi xây dựng hai nhân vật tuổi trẻ anh hùng. Nhân vật Việt và Chiến là hai chị em có những phẩm chất giống nhau nhưng đồng thời lại là hai gương mặt, hai cá tính khác nhau, mỗi người một vẻ và tất cả đều đáng yêu, đáng mến. Nguyễn Thi đã xây dựng hai nhân vật này thành những gương mặt tiêu biểu cho “Những đứa con trong gia đình” và thế hệ trẻ miền Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà rất đỗi hào hùng.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 9Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 10
Với tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi đã tăng thêm vị thế danh hiệu “nhà văn của người dân Nam Bộ”. Phong cách nhân vật của ông luôn là những người bộc trực, hồn nhiên, gan góc, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng. Hai nhân vật Việt và Chiến là minh chứng hùng hồn cho phong cách ấy.
Chiến và Việt cùng sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, có mối thù sâu nặng với Mĩ – ngụy. Ông nội và ba đều bị giặc giết hại. Má phải vất vả nuôi mấy chị em, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Chiến và Việt đều là hai nhân vật trung tâm của truyện ngắn góp phần thể hiện nội dung cũng như tư tưởng của tác phẩm. Hai nhân vật này đều có những vẻ đẹp tiếp nối truyền thống gia đình và đưa truyền thống ấy đi xa hơn.
Đầu tiên là nhân vật chị Chiến, chị Chiến trong tác phẩm là hiện thân vẻ đẹp của má. Chị được thừa hưởng những vẻ đẹp của má. Chị mang dáng vóc của má: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch”. Không chỉ về ngoại hình, chị Chiến giống má nhất ở sự đảm đang tháo vát. Trước đêm lên đường, Chiến lo liệu hết việc nhà. “Chị em mình đi thì thằng Út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học. Nồi lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi với nơm để gửi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới. Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đặng chia cho cô bác khác mần. Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm giỗ ba má. Đem bàn thờ sang gửi chú Năm”. Chị Chiến lo liệu chu toàn mọi việc đến chú Năm còn khen: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”.
Chiến chu đáo giống hệt má. Đến Việt cũng thấy chị giống má: “Chà, chị Chiến bữa nay nói in như má vậy! Cũng ở trong cái buồng mà nói vọng ra, cũng nằm với thằng Út em, ở trên cái giường đó”. Chị Chiến giống từ cách nằm, cựa mình, thở dài ngay cả cách nói vọng từ buồng ra. Chính chị Chiến cũng cảm thấy mình giống má: “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Nhưng không chỉ giống má, Chiến còn có nét riêng biệt. Ở Chiến vẫn có nét trẻ trung, thích làm duyên làm dáng. Trong túi Chiến lúc nào cũng có một cái gương để soi. Chiến là cô gái mới lớn, đang tuổi mơ mộng nên vẫn có những nét trẻ con. Điểm khác biệt nhất của chị Chiến với má là được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lời thề: “Đã là thân con gái, nếu giặc còn thì tao mất, vậy à?”. Chị Chiến là tiêu biểu cho người yêu nước, những con người sinh ra để cầm súng đánh giặc.
Nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm là Việt. Nhà văn đã trao ngòi bút để nhân vật Việt tự viết về mình. Việt là chàng trai có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, yêu đời. Việt có nét riêng của con trai mới lớn, tính tình trẻ con ngây thơ hiếu động. Việt hay giành phần hơn với chị từ việc đi bắt ếch, tòng quân, lập chiến công giết giặc… Việt thích đi câu cá, bắn chim, khi đi bộ đội rồi, anh vẫn mang chiếc ná thun trong áo. Đêm trước ngày lên đường, chị Chiến thu xếp toan tính mọi việc thì Việt lại vô tư lăn kềnh ra ván cười khì, vừa nghe vừa chụp con đom đóm vào lòng bàn tay rồi ngủ quên lúc nào không biết. Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con.
Mặc dù tin yêu anh em đồng đội nhưng lại giấu không cho ai biết mình có chị gái là tiểu đội trưởng bộ đội nữ Bến Tre. Việt sợ mất chị trước lời tếu táo của anh em. Khi bị lạc đồng đội, một mình nằm lại giữa chiến trường, không sợ giặc mà sợ “con ma thụt đầu ngồi trên cây xoài mồ côi, và thằng chỏng thụt lưỡi hai bên vàm sông”. Khi gặp được đồng đội, thằng út em vừa khóc vừa cười. Dù trẻ con nhưng trên cương vị của người chiến sĩ, Việt dũng cảm kiên cường. Dòng máu trong con người Việt là dòng máu gia truyền của những con người gan góc, không bao giờ sợ trước bạo tàn. Việt đã chiến đấu dũng cảm lập chiến công dùng thủ pháo tiêu diệt một xe tăng bọc thép của giặc. Khi bị trọng thương một mình giữa rừng, “mắt sưng húp không nhìn thấy gì, toàn thân như rỉ máu” nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. “Đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng”. Việt là đứa con kế tục truyền thống của gia đình đi tiếp con đường cách mạng của ba má là con đường đi trả thù mà không sợ dài lâu nhưng Việt còn tiến xa hơn, lập nhiều chiến công.
Chiến và Việt đã kế tục và phát huy truyền thống của gia đình, mang truyền thống ấy tiến xa hơn. Hai nhân vật, hai tính cách khác nhau nhưng vẫn có những điểm chung thống nhất. Hai nhân vật, hai bức tượng đài lớn của tác phẩm và trở thành hình mẫu của tuổi trẻ Việt Nam thời kỳ kháng chiến.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 9
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 8Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 9
Nguyễn Thi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi thời kháng chiến chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh khá sinh động cuộc sống của nhân dân Miền Nam dưới sự đàn áp dã man của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của con người Miền Nam trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do về cho dân tộc. Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Thi đi sâu khai thác đề tài: chủ nghĩa yêu nước anh hùng cách mạng của nhân dân Nam Bộ. Đó là những tập thể anh hùng được làm nên bởi mọi lứa tuổi. Trong đó, tầng lớp thiếu niên đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bức tranh hào hùng này như nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của ông.
Thật vậy, Việt là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Việt xuất thân trong một gia đình lớn, gia đình cách mạng. Những con người trong gia đình ấy đã gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có bản chất riêng, nhưng lại thống nhất với nhau về bản chất đó là: lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, có niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, với cách mạng và Tổ quốc. Hơn nữa, Việt xuất thân trong một gia đình mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Việt thì bị giặc chặt đầu, má Việt thì bị trái ca nông của Mỹ giết chết khi đi đấu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc hắn bể xuồng chết khi đi rọc lá chuối… những người thân trong gia đình của Việt lần lượt bị giặc sát hại. Những đau thương mất mát này đã sớm khơi dậy lòng căm thù giặc của Việt, đồng thời cũng sớm khơi dậy ý thức đấu tranh để trả thù nhà và góp phần vào việc đấu tranh giải phóng miền Nam của Việt.
Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. Việt đã tiến xa hơn thế hệ của ông cha mình. Lúc nhỏ Việt đã rất gan, đúng như lời nhận xét của chú Năm: “Việt là một thằng nhỏ nhưng rất gan lì”. Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà la “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm” mà Việt “cứ nhè cái thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lớn lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh giặc trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chứ chừng nào tôi mới bị”.
Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý chí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sau khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập nên chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mỹ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. “Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết, chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng”, “người Việt khô khốc”, “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vải trấu…”. Thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cuối cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt phải đi”.
Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến… tỉnh ra Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ mà trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ vẻ biển cả.
Tuy chiến đấu rất dũng cảm nhưng ở Việt vẫn còn mang tính chất trẻ con: rất thương chị nhưng không biết lo toan cùng chị, chỉ biết đi chiến đấu. Đi chiến đấu mà Việt vẫn giắt sau lưng một chiếc ná thun. Khi bị thương Việt có thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng Việt cũng chưa hiểu cái chết là như thế nào: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm lại đó? Việt chưa bao giờ nghỉ tới cái chết, mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra xao”. Và Việt không hề biết sợ chết, chỉ sợ là “không còn được ở chung với anh Tánh và cũng không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”. Những điều suy nghĩ của Việt thật ngây thơ và thật đáng yêu làm sao. Trước sau, trong hoàn cảnh nào Việt cũng nghĩ đến chiến đấu. Đó chính là bản chất vốn có của Việt và cũng chính là bản chất tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Tóm lại, trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật Việt – một nhân vật tiêu biểu cho tuổi trẻ miền Nam, tuổi trẻ của cả đất nước anh hùng. Sức mạnh của tuổi trẻ không gì ngăn nổi, hứa hẹn sẽ mở ra những khúc sông hào hùng hơn, vẻ vang hơn để đổ về biển lớn của cách mạng.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 7Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 8
Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Thi. Thiên truyện thành công ở nhiều mặt trong đó nổi trội lên là nghệ thuật xây dựng tính cách các nhân vật, đặc biệt là hai chị em Chiến và Việt – hai nhân vật chính của tác phẩm.
Nguyễn Thi đã dành hết tâm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ, đầy cá tính, có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên giàu tình nghĩa. Họ tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ. Câu chuyện về Những đứa con trong gia đình toát lên ý nghĩa lớn lao, gợi lại không khí của một vùng đất trong một thời chiến tranh vô cùng khốc liệt. Hai chị em Chiến và Việt cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát đau thương do kẻ thù gây ra. Ngay từ bé, hai chị em đã chứng kiến cái chết của cha thật tàn khốc: bị giặc bắn chết, chặt đầu bêu giữa chợ. Hai chị em đã cùng mẹ đau đớn đến cực độ khi đi đòi đầu ba.
Chiến và Việt lại cùng chứng kiến cái chết của má: “bị miểng văng trúng, má chết, trái cà nông lép còn nóng hổi trong rổi”. Tất cả điều đó đã tạc vào tâm khảm chị em Việt mối thù sâu nặng không đội trời chung với kẻ thù xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc. Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em. Tình cảm này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất trong cái đêm chị em giành nhau ghi tên tòng quân và sáng hôm sau trước khi lên đường nhập ngũ cùng khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể sờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai”. Khó mà nói hết được ý nghĩa trong đoạn văn xúc động này.
Tác giả đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta, về ý nghĩ của việc hai chị em quyết ra đi cầm súng chiến đấu và về tình cảm của mỗi nhân vật. Cả hai chị em đều là những chiến sĩ gan góc dũng cảm. Họ sinh ra trong một gia đình có truyền thống bất khuất. Quê hương mấy chục năm trời đầy bóng giặc, tang tóc đau thương trùm lên mọi gia đình. Cha mẹ đều là dũng sĩ nên hai chị em dường như sinh ra để mà đánh giặc, đánh giặc để trả thù cho ba má, cho gia đình và quê hương, đất nước. Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai chị em Việt và Chiến cũng là của tuổi trẻ miền Nam trong những năm tháng ấy: “Hạnh phúc của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù”. Chiến đã nói với em trong đêm thu xếp việc nhà trước lúc ra trận: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.
Câu nói mộc mạc, giản dị ấy vang lên thiêng liêng như một lời thề. Lời nói của một cô gái mới lớn nhưng đã biểu hiện được ý chí của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Tuổi mười bảy, mười tám, hai chị em Việt đều rất ngây thơ. Có lúc, hai chị em còn giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc và giành nhau ghi tên tòng quân. Cái hồn nhiên, ngây thơ vẫn còn in đậm trong mỗi người nhưng nhận thức về thù nhà nợ nước, về nghĩa vụ đánh giặc để giải phóng miền Nam lại vô cùng sâu sắc. Tuy có nhiều điểm chung nhưng mỗi nhân vật được nhà văn thể hiện bằng những nét riêng hết sức sinh động.
Trong khi xây dựng nhân vật của Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi luôn quan tâm đến việc cá thể hóa. Cái riêng hòa vào cái chung tạo nên sức sống của nhân vật trong thời đại của họ và trong lòng độc giả các thế hệ dành cho họ. Chiến là một cô gái trẻ mang vóc dáng của mẹ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…thân người to và chắc nịch”. Đó là vẻ đẹp của những con người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Chưa bao giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội. Phải đến đêm ấy, người ta mới biết một cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, giường ván, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ ba má.
Chiến lo liệu việc y hệt má (nói nghe in như má vậy). hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói ra với ra đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị giống in má, có khác chỉ là ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng đã lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu rằng: trong cái thời khắc thiêng liêng ấy, người mẹ sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt”.
Hơn Việt chỉ chừng hơn một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn so với cậu em. Chiến có thể bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ “nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng trọng” của chú Năm. Nhưng so với thế hệ mẹ thì người con gái ấy là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sống trước đó. Cái khác má ở Chiến cũng dễ nhận thấy. Cái khác ấy không chỉ ở chiếc gương trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ trung hay tính hay cười. Người mẹ, trước nỗi đau mất chồng đã, không có dịp nào cầm súng. Còn Chiến, Chiến đi bộ đội để trả thù nhà với quyết tâm như dao chém đá: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.Tính cách “người lớn” ở Chiến còn thể hiện ở sự nhường nhịn.
Tuy có lúc giành nhau với em tranh công bắt ếch, đánh tàu giặc, đi tòng quân nhưng cuối cùng bao giờ cô cũng nhường em hết trừ việc đi tòng quân. Ở đây, lẫn với tính trẻ con là niềm khát khao đánh giặc và tình thương em của người chị, chưa muốn em phải chịu đựng bom đạn nguy hiểm. Nguyễn Thi đã xây dựng nhân vật Chiến vừa có cá tính vừa phù hợp với lứa tuổi, giới tính. Chiến là nhân vật được hồi tưởng qua Việt nhưng đã gây được ấn tượng sâu sắc: một cô gái hồn nhiên, đôn hậu, thương em hết mực, đảm đang lo toan mọi việc. Người đọc bắt gặp một cô gái có phần già dặn trước tuổi. Chiến mang dáng dấp của những người phụ nữ Việt Nam như chị Út Tịch, như chính mẹ của chị.
Cũng đúng thôi bởi thời đại của Chiến, cuộc chiến tranh chống Mĩ vô cùng khốc liệt đòi hỏi mỗi thanh thiếu niên sức vươn mình vụt lớn của Phù Đổng Thiên Vương. Nếu Chiến có dáng dấp một người lớn thực sự thì Việt dường như vẫn giữ nguyên tính cách của một cậu bé. Việt được bạn đọc yêu thích trước hết là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư của một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy nhiêu. Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”.
Vào bộ đội, Chiến đem theo tấm gương soi còn Việt lại đem theo một chiếc súng cao su. Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở thành một anh hùng. Đọc truyện, ta cảm thấy hình như chưa lúc nào Việt hết ngây thơ. Nhưng đó là cái ngây thơ của một con người không biết thế nào là khuất phục. Ngay từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Khi trở thành một chiến sĩ, mặc dù chỉ có một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn, Việt vẫn quyết tâm sống mái với quân thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”.
Cứ như vậy, người con trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun. Việt là người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công. Việt là một thành công đáng kể trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Thi. Tuy còn hồn nhiên và còn bé nhỏ trước chị nhưng trước kẻ thù Việt lại vụt lớn, chững chạc trong tư thế của một người chiến sĩ. Một thành công nữa của Nguyễn Thi khi xây dựng nhân vật là nghệ thuật khắc họa tâm lí. Mạch tâm lí đứt nối theo lúc mê, lúc tỉnh của Việt đã giúp nhân vật hiện lên đầy đủ, phong phú với nhiều chiều, nhiều góc độ.
Nhà văn đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kể chuyện độc đáo từ đó mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi sâu vào đời sống tâm hồn nhân vật, làm nổi bật tính cách, phẩm chất nhân vật mà không bị khô khan, lộ liễu. Những đứa con trong gia đình thể hiện rõ tài năng Nguyễn Thi trong nhiều phương diện trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Với vốn sống phong phú, sâu sắc, với sự am hiểu tâm lí con người Nam Bộ, Nguyễn Thi đã xây dựng thành công nhiều nhân vật trong đó có Việt và Chiến. Họ hiện lên rõ nét sinh động, vừa có những nét chung tiêu biểu cho cả một thế hệ vừa có những nét riêng biệt, độc đáo. Họ là những nhân vật văn học sắc nét để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 6Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 7
Bằng tài năng nghệ thuật và lòng yêu quyê hương đất nước sâu sắc, Nguyễn Thi đã dành hết tâm huyết xây dựng lên những nhân vật văn học đáng nhớ, hồn nhiên giàu tình nghĩa, gần gũi với nhân vật đời thường. Đặc biệt là hai nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm Những đứa con trong gi đình, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Qua hai nhân vật của mình, ông đã thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc của toàn thể nhân dân ta.
Cuộc chiến tranh ác liệt đã cướp đi biết bao sinh mạng con người. Bom đạn của kẻ thù đã khiến cho hàng ngàn gia đình li tan, con mất cha, vợ mất chồng. Trước những mất mát đau thương quá lớn của dân tộc, nhiều nhà văn nhà thơ đã dùng ngòi bút của mình viết lên những câu chuyện để phần nào khắc họa lại những mất mát đau thương ấy. Hai chị em Chiến và Việt cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát đau thương do kẻ thù gây ra. Ngay từ bé, hai chị em đã chứng kiến cái chết của cha thật tàn khốc: bị giặc bắn chết, chặt đầu bêu ra chợ. Hai chị em đã cùng mẹ đau đớn đến cực độ khi đi đòi đầu ba. Chiến và Việt lại cùng chứng kiến cái chết của má: “bị miểng văng trúng, má chết, trái cà nông lép còn nóng hổi trong nổi”.
Tất cả điều đó đã tạc vào tâm khảm chị em Việt mối thù sâu nặng không đội trời chung với kẻ thù xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc. Trực tiếp chứng kiến cái chết của ba mẹ mình đó là nỗi đau không thể nao quên trong suốt cuộc đời của hai đứa trẻ. Chính bom đạn của kẻ thù đã bắt những ánh mắt trẻ còn quá ngây thơ nhưng đã phải chứng kiến điều khủng khiếp trong cuộc đời. Qua những lời văn miêu tả đến chi tiết của tác giả, người đọc có thể hình dung được bom đạn của kẻ thù đã tàn ác với nhân dân ta như thể nào. Điều đó đã thể hiện lóng yêu nước và ý chí căm thù giặc của tác giả cũng như của toàn thể dân tộc ta.
Tuy còn nhỏ tuổi nhưng hai chị em Việt và Chiến đã biết căm thù giặc và có ý tình thần chiến đấu chống lại giặc. Tình cảm này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất trong cái đêm chị em giành nhau ghi tên tòng quân và sáng hôm sau trước khi lên đường nhập ngũ cùng khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể sờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai”. Khó mà nói hết được ý nghĩa trong đoạn văn xúc động này. Tác giả đã nói lên hết sức cô động về cuộc chiến đấu của chúng ta, về ý nghĩa của việc hai chị em quyết ra đi cầm súng chiến đấu và về tình cảm của mỗi nhân vật.
Chiến và Việt là đại diện cho tuổi trẻ miền Nam trong những năm tháng ấy, quyết lên đường chiến đấu để bảo vệ nước nhà: “Hạnh phúc của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù”. Chiến đã nói với em trong đêm thu xếp việc nhà trước lúc ra trận: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Câu nói mộc mạc, giản dị ấy vang lên thật hào hùng, mạnh mẽ, thể hiện ý chí phi thường của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Họ là những con người còn ngây thơ hồn nhiên nhưng ý chí đánh giặc thì lại dứt khoát, quyết tâm..
Trong tác phẩm, nhân vật Chiến hiện lên là một cô giá trẻ mang vóc dáng của mẹ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to và chắc nịch”. Đó là vẻ đẹp của những con người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Chưa bao giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp xa nhà đi bộ đôi. Phải đến đêm ấy, người ta mới biết một cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, gường ván, ruộng nương đến nơi gửi bàn thơ ba má. Chiến lo liệu việc y hệt má (nói nghe in như má vậy). Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói ra với đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị giống in má, có khác chỉ là ở chỗ chị “không bè tay rồi đập và bắp vế than mỏi” mà thôi.
Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng đã lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu rằng: trong cái thời khắc thiêng liêng ấy, người mẹ sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cần nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt”. Đó là nét đẹp trong thế hệ trẻ Việt Nam, họ đã trưởng thành nhanh chóng trong khó khăn gian khổ, họ là những người đảm việc nước giỏi việc nhà, dù trong bom đạn ác liệt họ luôn hướng ra chiến trường nhưng việc nhà vẫn thu xêp trọn vẹn. Chiến đã có thể thay thế được người mẹ đã mất để lo liệu công việc gia đình, và Chiến còn có thể cầm súng để đánh lại kẻ thù nữa.
Chiến có thể nhường em tất cả mọi chuyện như tranh công bắt ếch, đánh tàu giặc, nhưng việc đi tòng quân giết giặc thì cô nhất định không chịu nhường. Điều đó đã thể hiện niềm khát khao đánh giặc và tình thương em của người chị, chưa muốn em phải chịu đựng bom đạn nguy hiểm. Trong toàn bộ câu chuyện, Chiến hiện ra trước mắt người đọc là một cô gái hồn nhiên, đôn hậu, thương em hết mực, đảm đang lo toan mọi việc. Người đọc bắt gặp một cô gái có phần già dặn trước tuổi. Chiến mang dáng dấp của những người phụ nữ Việt Nam như chị Út Tịch, như chính mẹ của chị. Cũng đúng thôi bởi thời đại của Chiến, cuộc chiến tranh chống Mĩ vô cùng khốc liệt đòi hỏi mỗi thanh thiếu niên sức vươn mình vụt lớn của Phù Đổng Thiên Vương.
Tác giả đã xây dựng hình ảnh nhân vật Việt trái hẳn với Chiến. Nếu Chiến có dáng dấp một người lớn thực sự thì Việt dường như vẫn giữ nguyên tính cách của một cậu bé. Việt được bạn đọc yêu thích trước hết là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư của một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy nhiêu. Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”. Vào bộ đội, Chiến đem theo tấm gương soi còn Việt lại đem theo một chiếc súng cao su.
Tuy ngây thơ là vậy, nhưng trong chiến đấu, Việt rất mưu trí và dũng cảm, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù. Ngay từ lúc bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Khi trở thành một chiến sĩ, mặc dù chỉ có một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn, Việt vẫn quyết tâm sống mái với quân thù: “Trên trời có mày, dưới chân có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao có bắn được mày”. Cứ như vậy, người con trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun. Việt là người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.
Một thành công nữa của Nguyễn Thi khi xây dựng nhân vật là nghệt thuật khắc họa tâm lí. Mạch tâm lí đứt nối theo lúc mê, lúc tỉnh của Việt đã giúp nhân vật hiện lên đầy đủ, phong phú với nhiều chiều, nhiều góc dộ. Nhà văn đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thưc kể chuyện độc đáo từ đó mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi sâu vào đời sống tâm hồn nhân vật, làm nổi bật tính cách, phẩm chất nhân vật mà không bị khô khan, lộ liễu.
Nhờ sự gắn bó với người dân Nam Bộ, nhà văn đã rất am hiểu tâm lí của người Nam Bộ và đã xây dựng thành công hai nhân vật trong truyện. Hai nhân vật đó là hiện thân của tuổi trẻ, lòng quyết tâm chiến đấu chống lại giặc của cả dân tộc, đặc biệt là người dân Nam Bộ. Cũng qua hai nhân vật của mình tác giả đã nói lên lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc của nhân dân ta. Tác phẩm đã sống mãi với thời gian và mãi mãi là niềm tự hào của người dân Nam Bộ, nó giống như ngọn đuốc sáng rực trên bầu trời văn học nước nhà.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 6
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 5Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 6
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì đánh Mĩ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu nóng bỏng, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn đằm thắm chất trữ tình. Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi. Truyện được viết trong những ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt nhất của chiến trường miền Nam.
Tác phẩm kể về hai chị em trong một gia đình có thù sâu với giặc Mĩ và bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa, ruộng vườn cho người chú để cùng tham gia bộ đội. Đoạn trích nằm ở phần giữa của truyện, kể về tình huống đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và lạc đơn vị. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Nhưng cũng chính vì thế mà kí ức sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ má, nhớ đồng đội, nhớ những giây phút không thể nào quên trước khi nhập ngũ của hai chị em. Những hình ảnh về con người và cảnh vật quê hương hiện lên rõ ràng trong tâm tưởng của Việt.
Nhân vật Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân giàu truyền thống cách mạng. Khi những người thân bị chết dưới tay giặc đều là những người việt yêu úy nhất: ông nội, ba mẹ. Gia đình chỉ còn lại chị Chiến, chú Năm, thằng út em với người chị nuôi đi lấy chồng xa. Việt hăng hái tham gia tòng quân giết giặc trả thù cho người thân, bảo vệ quê hương. Ở Việt ta luôn thấy được đó là “cậu tư” gan gạ, muốn lập nhiều chiến công như chị. Qua dòng hồi ức của Việt khi ngất đi tỉnh lại, ta còn thấy được, anh là một người tính tình trẻ con, vô tư, nghịch ngợm của tuổi mới lớn. Đặc sắc nhất là cảnh hai chị em thu xếp mọi thứ để lên đường tòng quân. Khi ấy, Việt chỉ “lăn kềnh ra ván cười khì khì” trong khi chị Chiến lo toan mọi thứ. Cảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm là một hành động chứng tỏ Việt đã trưởng thành, sẵn sàng đối đầu với quân địch.
Chiến là một cô gái 19 tuổi được thể hiện với nhiều nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam một thời đánh Mĩ. Trước hết, đó là vẻ đẹp trong đời thường. Tuy vẫn có lúc Chiến rất trẻ con như tranh công bắt ếch, tranh công bắn tàu giặc, tranh đi tòng quân với em,… nhưng lúc nào cũng nhớ mình là chị, nhường em tất cả, thương em, lo cho em. Ở Chiến, thù nhà gắn quyện với nợ nước. Chiến là chị cả trong một gia đình đã chẳng còn ba má. Cô gái ấy mới 19 tuổi mà gánh vác đầy đủ những trọng trách của một người mẹ. Chiến đảm đang gánh vác cả gia đình thay cha và nuôi nấng những đứa em thay mẹ. Đêm trước ngày lên đường, Chiến đã không ngủ được, sắp tới đây bao nhiêu chuyện phải lo. Không phải Chiến lo sợ, lo lắng mà là lo liệu, lo toan, bởi lẽ việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non… Làm sao có thể ra trận chiến đấu lập công trong khi việc nhà còn bề bộn.
Có thể nói rằng nhân vật Chiến đã được thể hiện với những nét đẹp truyền thống muôn đời của người phụ nữ Việt Nam trẻ trung, duyên dáng, đáng yêu nhưng cũng rất mực anh hùng dũng cảm. Cô đã tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống đánh giặc cứu nước của gia đình và đó cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Thi đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật nữ anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Việt và Chiến là hai nhân vật trung tâm của truyện, qua việc xây dựng và khắc họa hình tượng hai nhân vật trên, tác phẩm đã cho chúng ta thấy được tình yêu gia đình, yêu quê hương, đất nước. Đó là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 4Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 5
Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Thi là một trong những cây bút tiêu biểu cho văn học Việt Nam. Tuy quê ở Nam Định nhưng ông lại được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Trong sáng tác của ông có những tác phẩm tiêu biểu: Trăng sáng, Đôi bạn, Những đứa con trong gia đình…Nhưng tiêu biểu hơn cả là tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt –“Những đứa con trong gia đình”. Qua tác phẩm, nhà văn cho ta thấy được vẻ đẹp, phẩm chất của nhân vật Việt và Chiến: giàu lòng yêu nước, căm thù giặc. Họ như đi lên từ tuổi thơ đau thương, mất mát mà đến với cuộc chiến.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại đặt cho tác phẩm của mình là “Những đứa con trong gia đình”. Nhan đề ấy gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ: phải chăng những đứa con trong gia đình là những người con được sinh ra, lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng, đấu tranh kiên cường. Những đứa con ấy đã sống, chiến đấu để xứng đáng với truyền thống ấy? “Những đứa con trong gia đình” là sự khẳng định, ngợi ca mối liên hệ bền chặt, thiêng liêng giữa các thế hệ trong gia đình.
Tác phẩm trước hết thành công ở nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Việt bị thương và nằm lại chiến trường. Qua dòng hồi tưởng đứt nối của Việt, nhà văn đã mở dần đối tượng miêu tả, đi sâu hơn vào thế giới nội tâm của nhân vật. Cách diễn đạt này mang lại cho tác phẩm tính trữ tình đậm đà, tự nhiên, sống động. Theo dòng hồi tưởng của Việt, chị Chiến- người chị mà Việt hết sức thương yêu quí trọng- đã xuất hiện trước mắt người đọc với nét trẻ con và cả tính người lớn. Chiến dẫu sao cũng chỉ là một cô gái mới lớn, vẫn thích được khen, tranh công bắt ếch với em. Rồi đến cái ngày hai chị em đăng kí đi bộ đội, Chiến đã tranh đi với em-một lẽ vì thương em còn nhỏ nhưng một lẽ Chiến vẫn còn trẻ con: “Tao lớn tao mới đi, mày còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm hãy đi”, “Đề nghị mấy anh xét lại cho. Nó là em tôi mà cái gì nó cũng giành”.
Nhưng ở phương diện khác Chiến lại tỏ ra là một cô gái rất gan góc, đảm đang, tháo vát. Và trong cảm nhận của em, Chiến giống mẹ đến lạ lùng. Chiến lo lắng cho em từng chút, đi đâu Chiến cũng xem chừng em, yêu thương em. Đặc biệt Chiến là một cô gái tháo vát, đảm đang: trước khi lên đường chiến đấu, Chiến đã thu xếp việc nhà chu đáo: “thằng Út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra thì cho các anh ở xã mượn mở trường học”. Cả cái giường ván, Chiến cũng cho xã mượn làm ghế để ngồi học. Cái nồi, cái lu, chén, dĩa…Chiến đều gửi cho chú Năm. Nhà có năm công ruộng, Chiến giao lại cho chú Năm và bà con trong xóm làm. Hai công mía thì nhờ chú Năm thu hoạch để giỗ má. Bàn thờ ba má thì hai chị em cũng đem sang chú cho thằng Út trông coi.
Một câu nói giản dị nhưng tâm hồn chiến dường như cũng sáng bừng với câu nói ấy: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất…”.Với câu nói ấy, ta có thể hiểu vì sau Chiến đã tham gia cuộc chiến và chiến đấu dũng cảm đến như vậy. Từ hình ảnh Chiến-một cô gái dễ thương với một tính cách đa dạng đã cho ta thấy vẻ đẹp của người dân Nam bộ: giàu ý chí, lòng căm thù giặc mà lại sâu sắc nghĩa tình.
Cùng với nhân vật Chiến, nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật Việt. Việt đúng là một chàng trai mới lớn, hết sức hiếu động: thích bắt ếch, bắn chim, câu cá…và rất vô tư. Trong cái đêm trước ngày lên đường nhập ngũ khi nghe chị bàn việc nhà, Việt “lăn ra ván cười khì khì”, chụp một con đom đóm trong lòng tay rồi ngủ quên lúc nào không biết. Đến lúc đã thành một người lính, Việt vẫn mang theo cái ná thun bên mình. Khi bị thương giữa chiến trường, thất lạc đồng đội Việt không hề nao núng sợ hãi mà anh lại sợ ma. Việt thương chị mình theo một cách cũng rất trẻ con là giấu chị như giấu của riêng vì sợ mất chị.
Tuy chỉ mới mười tám tuổi nhưng Việt lại chiến đấu rất gan dạ và dũng cảm, kiên cường bởi lẽ dòng máu trong người Việt là dòng máu anh hùng, dòng máu của “những người con trong gia đình” có truyền thống cách mạng. Ngay từ khi còn rất nhỏ, Việt đã dám xông vào thằng giặc đã giết cha mình. Khi chiến đấu Việt lập chiến công là đã hạ được một xe bọc thép của giặc. Dù cận kề cái chết Việt vẫn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: “đạn đã lên nòng, ngón tay còn lại sẵn sàng chiến đấu”. Hình ảnh Việt mang vẻ đẹp của người thanh niên mới lớn. Tuy còn đó những nét trẻ con nhưng lại dạt dào tình cảm yêu nước. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Nguyễn Thi đã thành công trong việc khắc họa tính cách nhân vật một cách tinh tế sâu sắc, ngôn ngữ mang đậm sắc thái Nam bộ giàu chất tạo hình, góc cạnh.
Tóm lại, “Những đứa con trong gia đình” đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nhân vật Chiến và Việt- những thanh niên một thời hào hùng của dân tộc. Thông qua hai nhân vật này nhà văn đã cho thấy chính sự gan góc, kiên cường đã tạo nên sức mạnh dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 4
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 3Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 4
Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từthế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.
Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt vớihọng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vượt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.
Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.
Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.
Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnhgiới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn bó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 2Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 3
Chiến tranh gắn liền với đau thương, mất mát. Mặt trận Sài Gòn năm Tết Mậu Thân 1968 xưa đó đã cướp đi sinh mệnh nhà văn – chiến sĩ tài năng của dân tộc – Nguyễn Thi. Nguyễn Thi ra đi để lại bao nuối tiếc về một cuộc đời sống và cống hiến hết mình cho nghệ thuật, cho độc lập quốc gia. “Những đứa con trong gia đình” là một trong số ít tác phẩm nhà văn để lại cho đời. Tác phẩm xây dựng lên chân dung hai nhân vật Việt và Chiến đại diện cho thế hệ người con Nam Bộ thời kì kháng chiến chống Mĩ đau thương nhưng oanh liệt.
Nguyễn Thi – nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Nguyễn Thi đã phản ánh hiện thực cách mạng gian khổ và vẻ đẹp phẩm chất anh dũng, bất khuất của người con Nam Bộ trong cùng một đoạn trích “Những đứa con trong gia đình”. Hai nhân vật Việt và Chiến chính là “những đứa con” tiêu biểu cho cả một thế hệ trong đại gia đình ấy.
Nhân vật Việt là nhân vật trung tâm cũng là chủ thể của câu chuyện. Nguyễn Thi đặt nhân vật trong tình huống bị thương nằm tại chiến trường và mỗi khi tỉnh dậy sau cơn mê sảng lại nhớ về những mảnh kí ức khác nhau. Nhờ đó, thế giới nội tâm và diễn biến cảm xúc của nhân vật được bộc lộ phong phú và sâu sắc.
Hình tượng nhân vật Việt được tác giả thể hiện qua các nét vẽ của hành động, ngôn ngữ và thế giới tâm hồn. Đầu tiên, qua những hành động tranh giành xâu ếch, chiến công bắt giặc hay chuyện xung phong đi lính đã cho thấy Việt có nét riêng của một cậu con trai mới lớn, trong sáng và ngây thơ. Bên cạnh đó, Việt cũng là chàng trai trẻ dũng cảm, kiên cường. Việt đã gan góc ngay từ khi còn là thằng bé “đầu ba không lượm mà cứ nhè thằng chặt đầu mà đá”. Khi đi lính, bị thương nằm tại chiến trường, song chưa khi nào Việt buông bỏ. Bị thương liệt toàn thân nhưng riêng ngón tay trỏ của Việt vẫn áp lấy cò súng, sẵn sàng bắn bất cứ tên địch nào xuất hiện. Việt còn là người giàu tình cảm. Với ba má đã khuất, với chú Năm, với chị Chiến, với đồng đội… Việt khắc ghi từng hình ảnh của họ trong trí óc. Việt chính là đại diện thế hệ trẻ miền Nam lạc quan, tình nghĩa và bất khuất.
Tới nhân vật chị Chiến, Nguyễn Thi đã để cho nhân vật xuất hiện từ hồi ức rời rạc của Việt. Có thể thấy, ở Chiến có đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của người phụ nữ Nam Bộ, đó là đảm đang, trung hậu, anh hùng, bất khuất. Chiến thừa hưởng từ người mẹ toàn bộ đặc điểm về thể chất và tâm hồn. Chiến gánh vác gia đình, từ việc nhà việc nước tới việc tâm linh, Chiến đều làm tròn nghĩa vụ. Chiến có cái nét chất phác từ bắp tay tròn sạm đỏ, thân hình chắc nịch và bước chân “bình bịch” đậm chất Nam Bộ. Chiến có nét nữ tính, mơ mộng của người con gái Việt. Chiến dũng cảm xung phong đánh Mĩ, ngang tàn và kiêu dũng đậm chất nữ anh hùng Trần Thị Lý. Chiến được chú Năm khen “Giỏi”. Lời khen của chú Năm chính là sự ghi nhận của thế hệ đàn anh với thế hệ trẻ hôm nay.
Khắc họa hai nhân vật Việt và Chiến, Nguyễn Thi đã làm nổi bật nên thế hệ của “những đứa con trong gia đình” Nam Bộ thời chống Mĩ cứu nước. Với tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ và nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” đã gặt hái được nhiều thành công trong đặc sắc nghệ thuật. Tác phẩm chính là lời ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn và tính cách người Việt Nam vô cùng giàu tình người, trong sáng, trung hậu, kiên cường và sắt son với Tổ quốc. Tác phẩm cũng chính là “cuốn sổ gia đình” lớn của dân tộc.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 1Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 2
Những đứa con trong gia đình, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Thi. Trong tác phẩm này, ông đã dựng lên một tập thể anh hùng, dũng cảm, và trong tập thể đó, nổi bật nhất chính là hình tượng hai nhật vật Việt và Chiến. Thế hệ tiếp bước truyền thống gia đình, làm rạng danh truyền thống của dòng họ.
Hai chị em Việt Chiến là hình tượng chính, có sự tương đồng về lứa tuổi lại cùng được hun đúc, nuôi dưỡng từ một gia đình. Nên giữa hai chị em có rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết ở họ cùng mang lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức giết giặc để trả thù trong gia đình lúc nào cũng sục sôi. Trong tác phẩm, tác giả xây dựng nhiều chi tiết để thể hiện lòng căm thù giặc của hai chị em Việt, Chiến song chi tiết cảm động nhất là khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chí Năm. Trong thời khắc đó Việt đã nhìn thấy rõ lòng mình: “Còn mối thù thằng Mĩ còn có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Lòng căm thù giặc vốn là một khái niệm trừu tượng, vô hình nay đã được Việt hữu hình hóa, có sức nặng cụ thể. Và khi mối thù đó đè năng trên vai cậu càng quyết tâm hơn nữa giết giặc, trả thù cho gia đình.
Việt và Chiến còn là những chiến sĩ xông xáo trên mặt trận, gan dạ dũng cảm lập được nhiều chiến công. Chị Chiến mặc dù là con gái song chị mang trong mình ý chí, quyết tâm rất cao. Ra đi đánh giặc, chị chỉ mang theo một tâm nguyện: “Ta là thân gái, ra đi chỉ một câu này: Nếu giặc còn thì ta mất”. Tinh thần quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc ngoại xâm, đồng thời còn cho thấy sự mạnh mẽ, kiên cường của người phụ nữ nông dân Nam Bộ. Đây cũng là ý nguyện của toàn bộ thanh niên miền Nam lúc bấy giờ: “Ra đi chỉ một lời thề/ Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Còn Việt, anh tham gia chiến đấu khi chưa đủ tuổi tòng quân, nhưng Việt đã chứng tỏ mình là một chiến sĩ vô cùng dũng cảm.
Sự dũng cảm ấy được thể hiện trong lần anh ôm cả bầu pháo lao vào xe tăng địch; thể hiện trong lần Việt bị thương nằm giữa rừng, dù các giác quan gần như tê liệt, chỉ duy nhất một ngón tay còn cử động anh vẫn để sẵn vào cò sũng, luôn trong tư thế sẵn sang chiến đấy. Sự dũng cảm của Việt không chỉ thể hiện rõ trong chiến đấu mà còn thể hiện trong quan niệm về cái chết: “Chết là đau gấp mấy lần bị thương; chết là người thật bay lên nóc nhà còn người giả nằm dưới đất”, Qua niệm có phần ngây thơ, trẻ con, nhưng lại cho thấy cái chết đối với Việt không phải là điều khủng khiếp nhất với anh. Từ đó làm toát lên tình thần dũng cảm ở Việt. Sự gan dạ, dũng cảm ở hai chị em đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho những chiến sĩ giải phóng quân trong những năm kháng chiến chống Mĩ.
Nhìn sâu vào tâm hồn hai chị em Việt Chiến, chúng ta còn thấy được những vẻ đẹp khác, đó là vẻ đẹp của tình yêu thương gia đình. Chị Chiến mặc dù chỉ hơn Việt một tuổi nhưng lại rất đảm đang, tháo vát và hết sức yêu thương em. Chị luôn nhường nhịn Việt, chỉ có lần duy nhất không nhường đó là đêm ghi tên để lên đường tòng quân. Chị giành lấy phần khó khăn, vất vả về phía mình để em được sống trong an toàn. Còn Việt lại là cậu bé còn nhiều nét tính cách trẻ con nên hay tranh giành với chị Chiến, nhưng thực tế lại rất giàu tình cảm và lòng yêu thương chị. Bước chân bình bịch của chị khi khiêng bàn thờ sang nhà chú Năm càng làm rõ hơn tình yêu thương ấy. Nằm trong rừng bị thương, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, Việt lại nhớ về những kí ức của hai chị em.
Bên cạnh những điểm tương đồng, hai hình tượng này còn mang những điểm khác biệt do tính cách, lứa tuổi và đặc biệt là do vị trí trong gia đình quy đình. Những điểm riêng biệt này đã giúp tác giả điển hình hóa nhân vật, giúp cho mỗi nhân vật có tính cách và số phận riêng. Chị Chiến mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bắp chân lúc nào cũng tròn lẳn, bước chân đi rất nhanh và mạnh, khiến Việt có thể cảm nhận rõ bước chân bình bịch khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Đó là sức vóc đặc trưng của những người phụ nữ nông dân Nam Bộ, họ sinh ra để lo toan, thu vén cho gia đình. Là chị cả trong gia đình, chị Chiến sớm tỏ ra là người con gái đảm đang, tháo vát, chị lo toan công việc chu toàn. Trước khi lên đường ra mặt trận chị đã sắp xếp tươm tất mọi việc: chuyển bàn thờ má, cho mượn nhà làm trường học, trả lại ruộng cho xã,… Chị luôn suy nghĩ, lo toan chu đáo mọi việc.
Bên cạnh những điểm chung, tác giả đã đem đến cho người đọc hình tượng nhân vật Việt những nét vẽ mới lạ, độc đáo. Trước hết, Việt là một đứa trẻ hồn nhiên, ngay thơ có phẩn trẻ con của một chàng trai tuổi mới lớn. Khi còn nhỏ cậu hiếu động, rất hay tranh giành với chị. Lớn lên, tham gia chiến đấu, khoác lên mình bộ quân phục đĩnh đạc nhưng trong tâm hồn cậu vẫn vương lại những nét tính cách trẻ con. Bị thương trong rừng, câu không sợ chết mà sợ con ma cụt đầu – nỗi ảm ảnh tuổi thơ, đã khiến Việt khóc một cách hồn nhiên. Không chỉ vậy, khi ra chiến trường cậu còn giấu nhẹm, không kể về chị cho những đồng đội của mình, vì sợ mất chị. Tất cả những biểu hiện hồn nhiên, vô tư đó đã đem đến một cái nhìn tươi sáng, rât đáng yêu về những anh giải phóng quân trẻ tuổi.
Cùng là sự gan dạ, ũng cảm nhưng ta nhận thấy sự gan dạ của Việt được hình thành trên cơ sở cá tính mạnh mẽ, bộc trực hơn là thiên về bản lĩnh, kinh nghiệm. Sự mạnh mẽ, dũng cảm ở Việt được thể hiện trong hành động đầy gan dạ, ôm cả bọc pháo lao vào xe tăng địch. Đặc biệt với nhân vật này Nguyễn Thi đi sau vào khai hác những suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Ông đã khéo léo hòa trộn, đan cài đôi khi là cả những suy nghĩ thoáng qua của Việt về tiếng chim, đôi khi lại là những cảm xúc vô cùng thiêng liêng về má, chú Năm, truyền thống gia đình và đó còn là lòng căm thù giặc sục sôi. Những biến đổi linh hoạt đó đã cho thấy ẩn đằng sau lòng dũng cảm, kiên cường còn là một anh giải phóng quân trẻ tuổi, hồn nhiên, ngây thơ lại vừa can trường, bản lĩnh, mang trong mình lí tưởng cao đẹp.
Xây dựng chân dung hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả Nguyễn Thi đã làm nổi bật chân dung của những con người anh hùng trong thời đại mới. Trong họ trong chỉ đơn thuần là yêu căm chiến lạc, mà ở họ còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau, khi mơ hồ, tinh tế, khi sắc nét, rõ ràng. Chính những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công khi xây dựng chân dung nhân vật.
Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến số 1
Nguyễn Thi đã cho người đọc thấy rõ tài năng của ông trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật vừa cụ thể vừa sống động. Và rõ nhất là phẩm chất của Chiến, Việt tiêu biểu cho tấm lòng yêu thương, gắn bó sâu sắc của người nông dân Nam Bộ đối với gia đình, quê hương, đất nước; gắn bó sâu sắc giữa truyền thống gia đình với truyền thống quê hương, dân tộc. Điều đó đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc vệ quốc vĩ đại.
Đăng bởi: Phương Nguyễn
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích nhân vật Việt và Chiến trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi
10 Bài Văn Phân Tích Người Anh Hùng Đăm Săn Trong Đoạn Trích “Chiến Thắng Mtao
Sử thi “Đăm Săn” là sử thi anh hùng tiêu biểu nhất của cá dân tộc Tây Nguyên. Tác phẩm đã tái hiện lại đời sống đầy biến động của cộng đồng người Ê-đê cổ đại qua hàng loạt những chiến công của người anh hùng Đăm Săn: đánh thắng các tù trưởng sắt, Kên Kên mở mang buôn làng chặt cây Sowmuk, bắt ông tri làm theo ý mình, chinh phục nữ thần mặt trời… Qua người anh hùng Đăm Săn đã phản ánh khát vọng và mơ ước của người dân tộc Ê-đê. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao-Mxây” đã khắc họa đầy đủ nét đẹp hoàn mĩ của người anh hùng Đăm Săn từ ngoại hình cho đến nhân cách và lí tưởng. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn trong đoạn trích đã được chúng mình tổng hợp trong bài viết sau đây.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 10Nếu người Hy Lạp tự hào với hai bộ sử thi “Iliad” và “Oddysey”, người Ấn Độ thì tự tin khẳng định “mọi thứ trên đất Ấn Độ đều nằm hết trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata” thì người Việt cũng có thể tự hào khi nhắc đến pho tàng sử thi Tây Nguyên phong phú, đồ sộ của dân tộc mình. Trong đó, không thể không kể đến sử thi “Đăm Săn” của người Ê-đê. Đoạn “Chiến thắng Mtao Mxây” (SGK Ngữ văn 10, tập 1) là một trích đoạn rất tiêu biểu trong sử thi “Đăm Săn”. Qua đoạn trích này, người đọc có thể cảm nhận rõ vẻ đẹp của Đăm Săn – người anh hùng sử thi trong quan niệm của người Ê-đê.
Ngay từ khi bắt đầu cuộc giao chiến, vẻ đẹp của người anh hùng đã thể hiện rất rõ qua những chi tiết miêu tả ngoại hình: “khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp… Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Phép so sánh đã thể hiện được vẻ đẹp khỏe khoắn, phi thường của người anh hùng bộ lạc. Sức mạnh phi thường của Đăm Săn được thể hiện qua hành động “chặt ống tre thành ba khúc, xô đổ hàng rào” đã làm cho Mtao – Mxây cũng phải khiếp đảm. Thủ pháp đối lập được sử dụng nhằm làm nổi bật sự hèn nhát, khiếp nhược của Mtao – Mxây trong so sánh với một Đăm Săn với vẻ đẹp tuyệt vời cả về ngoại hình lẫn sức mạnh. Sự hèn nhát của Mtao – Mxây lộ ra ngay qua lời nói: “Ngươi không được đâm ta khi ta đang đi xuống đó, nghe”. Đáp lại, Đăm Săn đã trả lời thật dõng dạc: “Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi xuống nhỉ? Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta củng không thèm đâm nữa là…”. Lời nói đó vừa cho thấy bản lĩnh của người anh hùng với tư cách đàng hoàng, không hèn nhát, đồng thời cũng đã thể hiện thái độ mỉa mai, khinh bỉ không giấu giếm của Đăm Săn với kẻ thù.
Thắng lợi vang dội trước Mtao Mxây đã tăng thêm uy danh cho vị tù trưởng hùng mạnh và nhân lên sự trù phú cho buôn làng của Đăm Săn. Tất cả dân làng, tôi tớ của Mtao Mxây đều tình nguyện đi theo Đăm Săn. Nô lệ của Mtao Mxây “đông như bầy cà-tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như bầy kiến mối” đều đi theo Đăm Săn. Tôi tớ của Mtao Mxây mang của cải về nhà Đăm Săn “nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”. Tôi tớ của Đăm Săn thì đánh chiêng, tiếp khách, tiệc tùng linh đình để mừng thắng lợi của tù trưởng. Những lời nói và hành động đó đã chứng tỏ cùng với chiến thắng của tù trưởng là một xu thế phát triển tất yếu của bộ tộc: hai bộ tộc được sát nhập, địa bàn sinh sống của hai bộ tộc cũng được mở rộng. Trong sử thi này, dù thất bại thuộc về Mtao Mxây và hắn đã phải nhận cái chết, thì tác giả sử thi cũng không đề cập nhiều đến nỗi buồn, cái chết mà trái lại, không khí ăn mừng chiến thắng tràn ngập những trang sử thi. Điều đó đã cho thấy rõ thái độ và cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả nghiêng hẳn về người anh hùng Đăm Săn – người đại diện cho sức mạnh chính nghĩa của bộ tộc, buôn làng.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người anh hùng, tác giả sử thi đã sử dụng linh hoạt, hài hòa những biện pháp nghệ thuật độc đáo: thủ pháp phóng đại, đối lập, sử dụng nhiều hình ảnh so sánh… Những câu văn có sử dụng hình ảnh so sánh như “múa trên cao như gió bão”, “múa dưới thấp gió như lốc”,… đã khắc họa được vẻ đẹp rực rỡ của người anh hùng sử thi, đồng thời bộc lộ niềm tự hào của người Ê-đê về người anh hùng bộ tộc mình.
Hình tượng người anh hùng Đăm Săn trong đoạn trích đã hiện lên với tài năng và sức mạnh phi thường trong chiến công bảo vệ chính nghĩa, đòi lại danh dự cho buôn làng. Hình tượng đó được tác giả tái hiện thông qua cách kể chuyện hấp dẫn cùng những thủ pháp nghệ thuật như phóng đại, so sánh, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật đó, sử thi “Đăm Săn” nói riêng và sử thi Tây Nguyên nói chung sẽ mãi luôn là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 9Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 10
Đăm Săn là một tù trưởng anh hùng. Qua đoạn trích “Đăm Săn chiến thắng Mtao Mxay”, ta càng thấy rõ chàng là một dũng sĩ phi thương, vô địch.
Nguyên nhân xảy ra cuộc chiến giữa hai tù trưởng Đăm Săn và Mtao Mxay là do Mtao Mxay đã cướp Hơ Nhị- vợ của Đăm Săn. Đối với chế độ mẫu hệ của người Ê-đê bị kẻ thù cướp đi vợ là một nỗi sỉ nhục lớn. Vì thế Đăm Săn đã kéo quân tới làng kẻ địch tình, địch thủ để trả mối thù hận. Chiến thắng Mtao Mxay là lần thứ hai Đăm Săn phải chiến đấu để bảo vệ vợ, chứng tỏ sự hùng mạnh của người anh hùng Đăm Săn.
Sau khi đến và phá tan hàng rào sắt kiên cố, giữa sào huyệt địch, Đăm Săn đối diện với Mtao Mxay và cất tiếng thách đấu. Mtao Mxay đã một lần nữa hạ nhục Đăm Săn khi nói: “Ta không xuống đâu điêng ơi. Tay ta đang bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà”. Đáp lại lời nói đầy khiêu khích ấy của Mtao Mxay, Đăm Săm đã bình tĩnh mà nói cho Mtao Mxay biết: “Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang xuống nhỉ?…” Một câu nói thể hiện sự thông minh của Đăm Săn, không những đáp trả sâu cay đối thủ mà còn khiến Mtao Mxay trở thành kẻ hèn nhát.
Thế nhưng Mtao Mxay cũng không phải một kẻ tầm thường. Hắn cực kì dữ tợn và hiếu chiến, hắn có chiếc khirn tròn như đầu cú, gươm óng ánh như cái cầu vòng. Tiếng múa khiên của hắn tuy “kêu lạch xạch như quả mướp khô”, nhưng miếng võ ấy hắn đã học được ở cậu, ở bác, ở Thần Rồng. Hắn cũng từng đi chinh chiến khắp nơi “đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen đi xéo nát đất đai thiên hạ”. Có thể thấy đây chính là một kì phùng địch thủ của Đăm Săn. Giữa họ sẽ diễn ra một cuộc chiến vô cùng khốc liệt.
Sử thi Đăm Săn dùng lối so sánh giữa hai nhân vật để ca ngợi tài năng xuất chúng, có một không hai, phi thường vượt bậc của Đăm Săm. Khi chiến đấu với Mtao Mxay, Đăm Săn rung khiên múa, trông chàng mới oai phong biết bao “Một lần xóc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây.” Những hàng động chiến đấu ấy đã đưa Đăm Săn mang một tầm vóc thần, làm chủ giang sơn bao la.
Qua cảnh múa khiên và đâm chém nhau giữa hai tù trưởng, sử thi “Đăm Săn” đã làm sống lại những cuộc chiến tranh cướp đất, giành nô lệ giữa các bộ tộc xưa kia, đồng thời ca ngợi sức mạnh lớn lao và sự bảo vệ của tù trưởng với một bộ tộc. Đoạn văn tiếp theo khắc họa hình ảnh Đăm Săn trong tiệc ăn mừng chiến thắng. Lễ tiệc ăn mừng kéo dài suốt mùa khô. Có bảy ché rượu, trâu bảy con, lợn thiến bảy con để dâng thần, để cầu phúc “được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua”. Chiến thắng Mtao Mxay giúp Đăm Săn có thêm nhiều của cải và tôi tớ hơn rất nhiều. Tiệc chúc mừng linh đình diễn ra thể hiện niềm tin và ước mong tới một cuộc sống ấm no, phồn vinh của nhân dân Ê- đê. Đó cũng là điều mà tác giả sử thi mong muốn hướng tới.
Hình ảnh anh hùng Đăm Săn đẹp như một vị thần. Tác giả sử thi đã sử dụng lối so sánh và phóng đại làm nổi bật một chàng dúng sĩ lừng danh thiên hạ. Đăm Săn nằm trên vóng, tóc thả xuống sàn, “uống không biết say, ăn không biết no, trò chuyện không biết chán”. Chàng được mọi người chúc tụng và ca ngợi không ngớt, một vị tù truwnowngr hộ tụ đầy đủ sức mạnh to lớn bảo vệ cuộc sống ấm no yên bình của dân làng. Một tấm mền chiến quấn chéo trước ngực, một tấm áo chiến khoác trên mình, tai đeo nụ, gướm giáo ngheeng ngang… sức lực bằng voi đực, hơi thở “ầm ấm như sấm dậy” đã làm nổi bật “một trang tù trưởng mới giàu lên, đang sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”. Đăm Săm là niềm kiêu hãnh và ngưỡng mộ của bộ tộc, họ ca ngợi chàng, cảm phục chàng và biết ơn chàng vô bờ “Làm sao mà có được một tù trưởng đầu đội khăn nhiễu, vai manh nải hoa, đánh đâu đập tan đó, vây đâu phá đó như chàng?” Sức mạnh của chàng đã bảo vệ và đem lại hạnh phúc cho mọi người trong bộ lạc.
Qua đoạn trích, chất anh hùng ca của sử thi Đăm Săn được ta cảm nhận rõ ràng và đặc biệt ấn tượng với bút pháp miêu tả phóng đại, nghệ thuật tạo hình và tự sự đặc sắc của tác giả, anh hùng sử thi Đăm Săn là một dũng sĩ, một hình tượng đẹp nhất trong sử thi các dân tộc Tây Nguyên.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 9
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 8Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 9
Văn học dân gian Việt Nam, bên cạnh những bài ca dao trữ tình sâu lắng, bên cạnh những làn điệu chèo mượt mà làm mê đắm lòng người… còn có những áng sử thi hào hùng thể hiện sức mạnh và trí tưởng tượng tuyệt vời của con người. Người anh hùng Đăm Săn trong sử thi Đăm Săn qua đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây đã để lại trong lòng người đọc lòng yêu mến, khâm phục xen lẫn niềm tự hào về vẻ đẹp của sức mạnh thể chất, trí tuệ và tâm hồn cha ông tiên tổ của mình.
Đăm Săn là một tù trưởng giàu có và đầy sức mạnh. Bị Mtao Mxây cướp mất vợ, lòng tự trọng của một người con núi rừng, lòng tự trọng của một người tù trưởng đã cho chàng sức mạnh để đến nhà Mtao Mxây thách chiến. Trong cuộc chiến gay cấn và khốc liệt ấy, lòng dũng cảm, sự mưu trí và sức mạnh thể chất phi thường của người anh hùng Đăm Săn khiến bất cứ ai cũng cảm thấy khâm phục.Mtao Mxây cũng là một tù trưởng giàu có và mạnh mẽ. Chính Đăm Săn cũng cũng thừa nhận Ngôi nhà của lão tù trưởng nhà giàu này trông quả thật là đẹp và trông hắn dữ tợn như một vị thần. Với một tù trưởng như vậy, giao chiến với hắn ngoài chiến trường đã là một khó khăn, giao chiến tại nhà của hắn lại là một thử thách lớn hơn. Nhưng Đăm Săn đã dám “vào hang cọp” để đòi lại người vợ, đòi lại danh dự của mình. Chàng đến nhà Mtao Mxây thách thức “ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy”, rồi hết lời khinh bỉ, mỉa mai cốt dụ hắn ra khỏi nhà để giao chiến. Sự can đảm đó thật hiếm có.
Con người chàng cũng thượng võ vô cùng. Kẻ thù không dám xuống thang bởi lẽ hắn sợ chàng đâm khi đang đi xuống. Khi Mtao Mxây đi xuống thang chính là lúc hắn sơ hở nhiều nhất. Những kẻ cơ hội, hèn hạ thường lợi dụng lúc ấy để tấn công kẻ thù (bản thân Mtao Mxây có lẽ cũng là một kẻ như vậy, nếu không tại sao hắn nghĩ đến việc Đăm Săn sẽ làm như vậy với hắn). Nhưng Đăm Săn thì khác. Chàng nói: “đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng không thèm đâm nữa là, đến con trâu của nhà ngươi trong chuồng ta cũng không thèm đâm nữa là”. Tinh thần ấy chỉ có thể có ở một tâm hồn cao thượng và một sức mạnh vững vàng.
Bước vào trận chiến, người đọc lại càng thêm khâm phục tài năng và sức mạnh của vị tù trưởng đầu đội khăn kép, vai mang túi da này. Trong khi Mtao Mxây múa khiên lạch xạch như quả mướp, hắn lại được cậu, được bác, được Thần Rồng dạy múa khiên đánh võ thì Đăm Săn tự học tất cả. Vậy mà chàng đã tự rèn cho mình một sức mạnh và tài năng làm trời long núi lở. Đăm Săn múa khiên một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh… vượt một đồi lồ ô, chàng chạy vun vút… Chàng không chỉ mạnh mẽ về thể chất mà còn nhanh trí vô cùng. Mtao Mxây bảo Hơ Nhị quăng cho miếng trầu, hắn chưa kịp đớp lấy Đăm Săn đã nhanh hơn đón được từ đó sức mạnh của chàng tăng lên gấp bội. Người anh hùng toàn tài toàn trí không khỏi khiến lòng ta trầm trồ thán phục.
Sự tài giỏi, trí lực của Đăm Săn đâu chỉ được người người yêu mến. Con người ấy còn được thần linh hết lòng giúp đỡ. Sự thần thánh hoá chi tiết Đăm Săn được Trời giúp diệt Mtao Mxây cũng chỉ là một cách để bày tỏ lòng yêu mến con người phi phàm này.Giết chết Mtao Mxây, Đăm Săn không giết chóc thêm ai. Chàng thể hiện sự đôn hậu, nhân ái trong tiếng gọi tôi tớ kẻ thù về với mình. Kẻ mạnh thường khiến người khác phải sợ nhưng ở đây, trong đoạn trích này, sức mạnh của Đăm Săn lại được yêu mến. Bởi ở Đăm Săn không chỉ có sức mạnh của thể chất mà còn ánh lên vẻ đẹp của sức mạnh trong tâm hồn.
Ở những người anh hùng ngoài chiến trận, sa trường thường toát lên vẻ gân guốc, khô khan và cứng nhắc. Nhưng đến với Đăm Săn ta không khỏi ngạc nhiên, thích thú với vẻ ngoài vừa mạnh mẽ vừa dẹp đẽ của chàng. Mình chàng quấn tấm mền chiến, khoác áo chiến. Chân chàng bắp bằng xà ngang, đùi bằng ống bễ. Mắt chàng sáng long lanh – ánh sáng của trí tuệ, của sức mạnh, của lòng dũng cảm. Và có một chi tiết rất ấn tượng tóc (chàng) thả dài trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa’. Bên cạnh cái đẹp của sự gan góc, can trường ở Đăm Săn vẫn có những nét thật mềm mại, đáng mến.
Yêu mến, khâm phục vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn khiến ta thấy tự hào, trân trọng hơn về cha ông, về quá khứ của tổ tiên người Ê đê. Hình ảnh của những Đăm Săn, Xinh Nhã… đã dựng dậy một thời kì xa xưa âm vang tiếng cồng chiêng, vang vọng tiếng voi gầm… và vang dội tiếng những con người anh hùng đi mở đất cho cộng đồng, dân tộc.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 7Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 8
Sử thi là một thể loại hay trong văn học Việt Nam, nó đã bộc lộ rõ những hình ảnh thể hiện những chi tiết hào hùng và mạnh mẽ nhất trong dân tộc, những anh hùng dân tộc nổi bật và làm nên những trang lịch sử vẻ vang đó là người anh hùng Đăm Săn.
Đăm Săn là người anh hùng của dân tộc sử thi, những hình ảnh của người anh hùng này đã hiện lên mạnh mẽ trong tác phẩm, các hình ảnh đó không chỉ đem lại cho con người nhiều những hình ảnh mạnh mẽ nhất cho dân tộc của mình. Người anh hùng của dân tộc đã hiện lên mạnh mẽ và nó tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của những người dân ở đây, những hình ảnh trong dân tộc không chỉ để lại những hình ảnh sâu sắc nhất. Chi tiết ở đầu câu chuyện dẫn đến làm nổi bật người anh hùng này đó là Hơ Nhị bị bắt cóc, những hình ảnh đi cứu Hơ Nhị của Đăm Săn và sự thách thức của Đăm Săn và Mtao Mxay đã làm rõ lên hình ảnh và bóng dáng của dân tộc mình.
Hình ảnh của người anh hùng này nổi bật lên trong chi tiết đó là cuộc chiến đấu để cứu Hơ Nhị những trận đấu diễn ra mạnh mẽ và nó đã làm cho hình ảnh của vị anh hùng này nổi bật hơn, hình ảnh đó đã làm cho nhân vật này hiện lên trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất. Các hình ảnh về vị anh hùng này đã hiện lên trong những lần múa kiếm với Mtao Mxay, những cuộc chiến đấu mạnh mẽ và hình ảnh của Đăm Săn hiện lên trong từng khoảnh khắc, ở hiệp 1, Mtao Mxay tỏ ra kiểu ngạo và là người múa kiếm trước, nhưng trước những hình ảnh đó Đăm Săn vẫn rất bình tĩnh và ôn tồn, ở chi tiết đó cho chúng ta thấy về tính cách của vị anh hùng này, một người luôn bình tĩnh và lý trí trước kẻ thù, sự ôn tồn và bình tĩnh sẽ để cho vị anh hùng này giải quyết công việc tốt nhất, những hình ảnh kiêu ngạo và những cuộc múa kiếm của kẻ thù không làm cho lý trí của Đăm Săn lung lay.
Dùng lý trí để giải quyết công tốt công việc của mình cũng chính là giải quyết tốt công việc của toàn dân tộc, niềm tự hào về truyền thống dân tộc vẻ vang đã mang lại nhiều những ý nghĩa nhất định và những ảnh hưởng sâu sắc. Tiếp theo cuộc chiến đấu vẫn diễn ra sôi nổi và hàng loạt những hình ảnh thể hiện tài năng và phẩm chất của Đăm Săn đã hiện lên mạnh mẽ và nó tác động sâu sắc đến con người này, hình ảnh của vị anh hùng dân tộc nổi lên qua những bước múa kiếm mạnh mẽ và nó tác động sâu sắc đến hình ảnh của anh hùng này.
Khi múa kiếm những hình ảnh múa kiếm oai vệ và nó tác động sâu sắc đến hình ảnh của vị anh hùng này, những hình ảnh đó làm cho chân dung của vị anh hùng này nổi bật và hiện hữu mạnh mẽ nó không chỉ đem lại những hình ảnh đó cho cả dân tộc của mình. Những hình ảnh của dân tộc và nó đã tác động đến hình tượng của người anh hùng dân tộc, những hình dáng vẻ vang và nó đã hiện hữu lên thêm cho hình ảnh cuộc sống của cuộc sống những người anh hùng này, hình ảnh của dân tộc đã hiện hữu lên trên con người của Đăm Săn, Đăm Săn là một vị anh hùng anh dũng và lẫm liệt hình ảnh đó đã dựa trên những hình ảnh mạnh mẽ và tác động mạnh mẽ và nó trở nên vẻ vang và hùng vĩ lên trên con người của mình.
Đăm săn có nhiều hình ảnh đẹp thông qua cuộc thách đấu với Mtao Mxay Đăm săn là một anh hùng dũng cảm , mạnh mẽ trước những gì mà Mtao Mxay nói , không có một đắn đo gì Đăm săn đã nói ra những gì mà mình mong muốn, những hình ảnh đó đã tạo nên một người hùng dũng và tạo nên nhiều những ấn tượng sâu sắc trong long người đọc, hình ảnh người anh hùng này hiện hữu lên trên trong nhiều chi tiết và hình ảnh đó không chỉ mang lại cho con người những suy nghĩ nhất định, trước hình ảnh chiến đấu mạnh mẽ người anh hùng này đã làm nổi bật lên trong con người những hình ảnh hiện hữu sinh động và mạnh mẽ nhất, hàng loạt những hình ảnh đã thể hiện được điều đó đó là cuộc chiến một mất một còn giữa vị tù trưởng những hình ảnh mang những đặc trưng sâu sắc trong cuộc chiến đấu giữa các anh hùng của dân tộc sử thi.
Hình ảnh về người anh hùng Đăm Săn với dân làng, với chiến thắng trở về Đăm Săn trong lòng dân chúng đã thể hiện mạnh mẽ trong mỗi người dân trong làng, hình ảnh đó không chỉ đem lại sự tin tưởng tuyệt đối đối với Đăm Săn, niềm vui chiến thắng khi trở về và những cuộc chiến đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, những cuộc chiến đấu đó không chỉ mang lại nhiều những điều vẻ vang và hạnh phúc đối với cuộc sống của mình, những hình ảnh đó đã tạo nên nhiều những hình ảnh mang đặc trưng nhất định đối với truyền thống của dân tộc sử thi. Những hình ảnh trên không chỉ làm nổi bật lên vị anh hùng của dân tộc ta mà đó là niềm tự hào vô bờ bến đối với những vị anh hùng của đất nước, truyền thống dân ta, và những chiến thắng đó đã đem lại nhiều thắng lợi và tự hào về truyền thống của dân tộc mình.
Đăm Săn là một niềm tự hào đối với sử thi, vị anh hùng này đã hiện lên trên trang văn của dân tộc những hình ảnh mang nhiều đặc trưng nhất, các hình ảnh đó đã tạo dựng nhiều những con người anh hùng thắng lợi của cuộc chiến đấu của dân tộc ta. Đăm Săn là một người có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dân tộc sử thi, nhờ chiến thắng được kẻ thù chính vì vậy Đăm Săn là một vị anh hùng dũng cảm và hết lòng vì dân chúng, tất cả những hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến truyền thống của dân tộc Việt Nam. Sự đoàn kết và tin tưởng vào vị tù trưởng đó đã đem lại những hình ảnh vẻ vang và có ý nghĩa nhất. Hình ảnh của những người anh hùng này không chỉ dừng lại ở cuộc chiến đấu với Mtao Mxây mà nó còn hiện hữu trong những giây phút vẻ vang trước dân làng, những đối thoại đó đã làm cho hình dáng và phẩm chất của anh hùng này được nâng cao.
Các hình ảnh tiếp theo của câu chuyện đã làm nổi bật được cuộc sống của vị anh hùng này đối với truyền thống của dân tộc ta, mỗi chúng ta rất tự hào về truyền thống của dân tộc. Trước thắng lợi của Đăm Săn các tù trưởng của dân tộc đã hội họp về đây để ăn mừng, và chung vui cùng cả dân tộc này. Nhờ chiến thắng đó mà Đăm Săn xây dựng được nhiều những tiếng vang trong cuộc đời, Đăm Săn thu hút được nhiều người tham gia và cùng vào đội của Đăm Săn, tinh đến thời điểm đó thì Đăm Săn đã thống lĩnh một số lượng người rất lớn và tạo dựng niềm tin mạnh mẽ cho con người.
Cuộc chiến đấu đó không chỉ đem lại cho mỗi người khi đọc câu chuyện này hiểu rõ được nhân vật Đăm Săn một người luôn luôn vì đất nước và có những ước muốn vẻ vang đối với dân tộc của chúng ta. Mỗi người khi đọc tác phẩm này có lẽ sẽ ấn tượng nhất đối với vị anh hùng Đăm Săn và nó mang lại nhiều những ý nghĩa quan trọng và tác động lớn mạnh nhất tới con người và hình ảnh của dân tộc đã hiện lên mạnh mẽ và nó mang nhiều ảnh hưởng to lớn đối với dân tộc Việt Nam. Hình ảnh của Đăm Săn đã làm nổi bật lên truyền thống vẻ vang của dân tộc và niềm tự hào về truyền thống của dân tộc sử thi, hàng loạt những chi tiết của bài đã thể hiện được điều đó và chúng ta nên tự hào về truyền thống của dân tộc ta.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 6Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 7
Trong quá trình lao động sản xuất nhân dân ta đã sáng tác được ra những câu chuyện những tác phẩm tuyệt vời kể về cuộc đời, số phận chiến công của các tù trưởng anh hùng như Đam San, Đăm Di, Xinh Nhã, …được đánh giá cao và có tầm ảnh hưởng lớn đối với người đọc.Truyện Đăm Săn là một tác phẩm như thế và đây cũng là một trong những tác phẩm sử thi của dân tộc Ê đê Tây Nguyên và là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng dân tộc Việt Nam. Tác phẩm nói về người tù trưởng mang tên Đăm Săn cũng chính là câu chuyện về cộng đồng thị tộc Ê đê trong buổi đầu lịch sử. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao-Mxây” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Đam San có vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình, lời nói, hành động đến nhân cách và lí tưởng sống.
Sử thi là thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian, có quy mô lớn, ngôn ngữ có vần nhịp, hình tượng hào hùng hoành tráng, kể về những biến cố trọng đại của cộng đồng, lưu truyền bằng phương thức hát –kể khan.Sử thi có hai loại là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng. Sử thi Đam San là sử thi anh hùng tiêu biểu nhất của các dân tộc Tây Nguyên.Tác phẩm đã tái dựng lại đời sống đầy biến động của cộng đồng người Ê đê cổ đại qua hàng loạt những chiến công của người anh hùng Đam San : đánh thắng các tù trưởng Sắt, Kên Kên, mở mang buôn làng, chặt cây Sơmuk, bắt ông Trời phải làm theo mình, chinh phục nữ thần mặt trời, … Đoạn trích Chiến thắng Mtao-Mxây ( SGK Ngữ văn 10 ) nằm ở giữa tác phẩm, kể về chiến công Đam San đánh thắng tù trưởng Sắt cứu vợ, bảo vệ thành công sự ấm no, hòa bình của buôn làng. Trong Đoạn trích, Đam San đã tỏ rõ mình là người anh hùng qua việc khiêu chiến, giao chiến trong bốn hiệp, chiến thắng Mtao-Mxây, thuyết phục tôi tớ Mtao-Mxây theo mình và ăn mừng chiến thắng.
Trước hết, Đam san là người có vẻ đẹp ngoại hình hoàn mĩ theo quan niệm của người Ê đê cổ đại.Vẻ đẹp của chàng được miêu tả bằng những mĩ từ trang trọng, giọng điệu sùng kính, thái dộ ngưỡng mộ, tự hào. Đam San có giọng nói hào sảng, vang dộng khi ra lệnh cho tôi tớ chuẩn bị lễ vật cúng thần, mời tất cả buôn làng, ra lệnh đánh chiêng trong khắp buôn.Chàng có hình dáng phi thường, vạm vỡ, khẻo đẹp, đậm chất tự nhiên Tây Nguyên.Tóc chàng dài thả xuống đầy cái nong hoa ; bắp chân to bằng cây xà ngang, bắp đùi to bằng ống bễ, sức ngang sức voi đực, hơi thở ầm ầm tựa sấm, mắt long lanh như chim ghếch ăn hoa tre.Trang phục của chàng oai nghiêm, thể hiện sức mạnh, uy quyền và sự giàu có: ngực quán chéo một tấm mền chiến, khoác tấm áo chiến, có đủ gươm giáo. Chàng nhiều của cải, sung túc, có chiêng đống, voi bầy, la nhiều, bạn bè như nêm như xếp, các tù trưởng khác khiêng lễ vật đến kết thân, cả thần linh cũng biết tiếng tăm của chàng. Chàng là niềm tự hào của cả bộ tộc.Vẻ đẹp của chàng hoang dã, gần tự nhiên.Sự giàu có, phồn vinh của chàng cũng là sự hùng mạnh của buôn làng.
Trong cuộc giao chiến, tài năng, phẩm chất anh hùng của Đam San thể hiện rõ nhất trong cuộc giao chiến với Mtao-Mxây, trong tư thế đối lập hoàn toàn với kẻ thù. Đam San chiến dấu với Mtao M xây nhằm mục đích chính đáng là cứu vợ bảo vệ hạnh phúc gia đnh, bảo vệ danh dự cá nhân và cộng đồng, bảo vệ giữ gìn sự bình yên, phồn thịnh của buôn làng, đều là lẽ đúng, đứng ở bên chính nghĩa.
Khi giao chiến, Đam San được miêu tả trong thế so sánh với Mtao M xây.Tác giả dân gian thường miêu tả Mtao M xây trước để làm nền tôn vinh tài năng, sức mạnh của Đam San. Cuộc chiến diễn ra trong bốn hiệp.Hiệp 1, Đam San Đam San nhường kể thù múa khiên trước ; hiệp 2 : cả hai cùng múa khiên, Mtao M xây chém trượt Đam San ; hiệp 3 Đam San đớp được miếng trầu của vợ, đam trúng Mtao M xây nhưng hắn không chết ; hiệp 4 : ông Trời mách nước Đam San giết được kẻ thù .Vẻ đẹp Đam Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của mơ-tao Mơ-xây. Đam San chủ động tự tin khiêu chiến, đến tận chân cầu thang nhà Mtao M xây thách đấu mặc dù kẻ thù có lợi thế đất nhà, giàu có, được trang bị vũ khí tinh xảo, có bề ngoài uy nghi đáng sợ.Tù trưởng Sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của chàng. Hình ảnh Đam Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”.
Trong cuộc giao chiến, bất cứ lúc nào Đam San cũng tỏ ra chủ động, tự tin, bình tĩnh, dũng mãnh, chiến đấu kiên cường, hành động kiên quyết. Chàng múa khiên rất khỏe, đẹp, nhanh : một lần xốc tới vượt một đồi tranh, một lần xốc tới vượt một đồi lồ ô, vun vút qua phía đông, phía tây ; múa khiên như gió bão gió lốc, khiến chòi lẫm đổ lăn lóc, cây cối chết rụi, khiến ba lần quả núi rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung. Nghệ thuật cường điệu đã cho thấy sức mạnh và tài năng phi thường của Đăm Săn.
Đam Săn không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp chàng giành lại người vợ yêu quí.Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông Trời. Người anh hùng sử thi luôn có mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên. Sang hiệp thứ hai hắn đã đuối sức và cầu cứa Hơ Nhị ném cho hắn một miếng trầu nhưng cô đã không ném cho hắn mà ngược lại là dành cho chồng. Nhận được miếng trầu từ tay vợ sức mạnh của Đăm Săn càng tăng lên gấp bội chàng múa khiên như gió bão như lốc “núi ba lần rạn nứt ba đồi tranh bật rễ” cây giáo thần của Đăm Săn nhằm vào đùi, vào người Mtao-Mxây mà phóng tới, mà đâm vào nhưng không thủng. Trận chiến đã lên đến đỉnh điểm khiến Đăm Săn thấm mệt. Bước sang hiệp giao đấu thứ hai, Đăm Săn vừa chạy, vừa mộng thấy ông trời, rồi được ông trời chỉ dẫn. Sáng tạo nên chi tiết kì ảo thú vị này, tác giả dân gian đã huyền thoại hóa người anh hùng sử thi để ca ngợi của chàng.
Việc Đăm Săn được ông trời giúp đỡ không hạ thấp tài năng của chàng mà trái lại càng tăng thêm thanh thế uy danh của Đăm Săn. Nó chứng tỏ cuộc chiến của chàng là cuộc chiến chính nghĩa nên được thần linh trợ giúp. Tuy nhiên, ông trời cũng chỉ là người mách nước còn quyết định vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào hành động trực tiếp của Đăm Săn. Bừng tỉnh sau lời “cố vấn” của ông trời, Đăm Săn càng nhanh nhẹn, quyết liệt và dứt khoát. Nhanh như chớp chàng “chộp ngay…kẻ địch” khiến cho “cái giáp của Mtao-Mxây…loảng xoảng”. Hắn thảm bại, chạy trốn cầu xin Đăm Săn nhưng Đăm Săn không hề khoan nhượng. Chàng kể tội, kết án kẻ thù rồi “đâm phập…ngoài đường”. Hành động đó của chàng không hề thể hiện Đăm Săn là một kẻ dã man ,khát máu, nó là lối hành xử quen thuộc, thường thấy ở các thủ lĩnh anh hùng thời cổ đại khi kẻ thù xúc phạm tới danh dự, điều thiêng liêng, cao quý nhất của họ.
Trái hẳn với Đam San, Mtao-Mxây rất kém cói, hèn nhát.Lúc đầu hắn huyênh hoang tự nhận mình là học trò của thần Rồng ,là tướng quen đi xéo nát đất thiên hạ nhưng khi giao chiến thì hắn múa khiên lạch xạch như quả mướp khô, được nhường đánh trước thì đâm trượt Đam San, khi yếu thế thì chạy trốn quanh chuồng lợn, chuồng trâu, khi bị thua thì cầu xin giữ lại tính mạng. Trong đoạn giao chiến, Đam San hiện lên là người anh hùng tài giỏi, quả cảm, giàu tinh thần thượng võ, Đam San chính là kết tinh sức mạnh ,vể đẹp, y chí, khát vọng của cả cộng đồng .Ngôn ngữ tả hành động chiến đấu của Đam San giàu nhịp điệu, hình ảnh, chất thơ, sử dụng nhiều phép so sánh cường điệu, liệt kê trùng điệp dày đặc.
Sau khi chiến thắng, Đam San không tiến hành giết chóc đẫm máu mà thuyết phục, kêu goi tôi tớ của Mtao m xây theo chàng.Thái độ kêu gọi của chàng rất nhiệt thành, tận tình, vồn vã, thuyết phục ba lần, chàng trực tiếp đến gõ cửa từng nhà để kêu gọi. Lời kêu gọi thể hiện l tưởng anh hùng của Đam San : thống nhất các buôn làng, khát vọng hòa bình, phồn vinh, giàu mạnh, thống nhất lợi ích cá nhân chàng và lợi ích của cả buôn làng.Đáp lại lời kêu gọi của Đam San, tôi tớ của M-tao M-xây nô nức đem theo của cải về với chàng.Điều đó thể hiện uy tín của Đam San với cộng đồng, khát vọng hòa bình, giàu mạnh của chàng phù hợp với nguyện vọng chung của dân làng cũng như người Ê đê cổ đại.
Kết thúc trân đấu chàng về bản tổ chức ăn mừng. Lễ ăn mừng chiến thắng là một chuỗi những ngày hội dài “kéo dài hết mùa khô” và được tổ chức: linh đình và sang trọng; đông vui, nhộn nhịp; với đầy đủ phong tục tập quán của đồng bào Ê- đê Tây Nguyên. Nổi bật giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đam Săn – tù trưởng hùng mạnh ít ai sánh kịp. Ngay cả trong không khí yên bình của cộng đồng, vẻ đẹp ấy vẫn nổi bật từ ngoại hình đến hành động: mái tóc dài cuồn cuộn thả xuống một cái chiêng, uống rượu không bao giờ say, ăn uống không bao giờ thấy no. Hơn thế nữa, ngôn ngữ phóng đại của sử thi đã so sánh chàng ngang sức mạnh thần linh: “Oai linh vang đến tận thần núi phía Đông, đến tận thần núi phía Tây”.
Hình ảnh Đam Săn sau chiến công này được mô tả phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tự hào về người anh hùng tiêu biểu của cộng đồng: “Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đam Săn quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trổ sắc bén…Đam Săn hùng cường ngay từ trong lòng mẹ”. Vẻ đẹp ấy chỉ có thể xuất hiện trong sử thi anh hùng, chỉ có ngôn ngữ sử thi mới đem lại những vẻ đẹp độc đáo đến thế! Và lần ăn mừng bấy giờ cũng là khúc khải hoàn ca của bộ tộc Đăm Săn cho ta thấy sự phát triển, giàu có, hùng mạnh của bộ tộc Đăm Săn sau khi chàng giành chiến thắng. tô đậm và khắc sâu ý nghĩa thời đại của chiến tranh bộ tộc trong sự phát triển của cộng đồng.
Với ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh giàu nhạc điệu cùng phép so sánh và cường điệu độc đáo, ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh, chất thơ, nhạc điệu, lời kể hấp dẫn qua chiến công của Đăm Săn tác phẩm đề cao hình tượng oai phong dũng mãnh đề cao tài năng đề cao hạnh phúc gia đình tha thiết với cuộc sống phồn vinh bình yên của cộng đồng của người anh hùng Đam Săn qua đó làm nổi bật phẩm chất khát vọng cao đẹp của người xưa.
Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đam Săn trong chiến công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bến nước. Lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi. Sử thi anh hùng Đam Săn quả thật đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân tộc Ê-Đê, thành di sản quí báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi rực rỡ với vẻ đẹp “một đi không trở lại”.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 6
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 5Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 6
Người anh hùng sử thi là trọng tâm miêu tả của bức tranh hoành tráng. Tầm vóc lẫn chiến công của chàng trùm lên toàn bộ chiến công, toàn bộ thiên nhiên và xã hội Ê-đê. Trong quan niệm của người dân tộc Ê-đê, cuộc chiến từng đóng vai trò là “bà đỡ lịch sử” khiến cho cộng đồng ngày càng phát triển, ngày càng có cuộc sống ấm no, thịnh vượng. Trong sự phát triển ấy, người anh hùng có vị trí hết sức lớn lao tầm cỡ. Sau mỗi chiến công của người anh hùng là một lễ ăn mừng hoành tráng của cộng đồng để suy tôn, ca ngợi cũng như thể hiện niềm vui về sự no đủ, đông đúc mỗi ngày.
Sau chiến thắng oanh liệt trước tù trưởng Mtao-Mxây, Đăm Săn đã trở thành người anh hùng giàu có, hùng mạnh nhất. Tôi tớ theo về “đặc như bầy cà tong”, của cải đưa về “nhiều như ong đi chuyển nước”. Tràn ngập trong niềm vui, Đăm Săn đã cho toàn bộ tộc ăn mừng chiến thắng. Tiếng tuyên bố mở hội dõng dạc vang vọng của chàng khiến cho khắp rừng núi âm vang trong không khí háo hức. Cả cộng đồng người Ê-đê và người Ê-ga được tái hiện sinh động đầy sức sống. Và sừng sững trong xã hội ấy, là nét đẹp vừa hoành tráng, vừa lãng mạn của người anh hùng Đăm Săn.
Nét đẹp được ghi nhận trước tiệc của Đăm Săn trong lễ ăn mừng chính là nét đẹp về ngoại hình và sức mạnh. Chàng được miêu tả với vẻ đẹp và sức mạnh của một vị thần. Người Ê-đê, Ê-ga ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước. “Mình quấn chéo một tấm mền chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghêng ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như chim, bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”. Bằng nghệ thuật miêu tả, so sánh gần gũi, cụ thể với nhiều chi tiết hết sức sinh động, kết hợp với nghệ thuật trì hoãn sử thi và cách nói phóng đại sử thi, người dân Tây Nguyên đã biến người anh hùng của họ thành một vị thần với tất cả sức mạnh hội tụ từ núi rừng, vũ trụ. Sức mạnh của chàng được so sánh với những gì mạnh nhất, đẹp nhất của thiên nhiên.
Vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ, trải qua bao cuộc chiến, Đăm Săn đã lớn lên và trở thành chiến thần. Chàng có tất cả vẻ đẹp cũng như sức mạnh của thần linh qua trí tưởng tượng bay bổng kì diệu và lòng mến yêu vô hạn của người Tây Nguyên. Không chỉ có sức mạnh dũng mãnh chàng còn có vẻ đẹp lãng mạn: “Chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa, đầu đội khăn nhiễu, vai mang mũ hoa, chàng ăn không biết no, uống không biết say, trò chuyện không biết chán”. Toát lên từ câu chữ một chàng Đăm Săn hoà đồng vui vẻ. Không hề phân biệt địa vị cao thấp giàu hèn. Đăm Săn là biểu tượng cho hài hoà giữa cái đẹp dữ dội của núi rừng, vũ trụ với cái đẹp êm ả lãng mạn của tâm hồn người Tây Nguyên. Cái đẹp ấy vừa có sự cao cả, kì vĩ của người anh hùng lại vừa có nét kì diệu, đậm đà bản sắc Tây Nguyên.
Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của sức mạnh và hình thể, Đăm Săn còn hiện lên trong lễ ăn mừng, ở vẻ đẹp của lòng tôn kính tổ tiên, thần linh, lòng hiếu khách, một tâm hồn thuỷ chung, phóng khoáng rộng rãi. Sau chiến thắng, Đăm Săn không quên sai tôi tớ làm lễ cảm tạ tổ tiên và thần linh đã giúp cho chàng chiến thắng, đã giúp bộ tộc của chàng ngày một vững mạnh giàu có. “Ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rượu bắt trâu, rượu năm ché, trâu bảy con để dâng thần, rượu bảy ché, lợn thiến bảy con cầu cho ta được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp”. Cách Đăm Săn sai tôi tớ sắm đồ lễ cúng tế chứng tỏ lòng thành kính sâu sắc với thần linh, tổ tiên của chàng. Nó cũng chính là tiếng nói tín ngưỡng của cả cộng đồng dân tộc Ê-đê.
Sau khi làm lễ tạ khấn thần linh, tổ tiên Đăm Săn đã mời tất cả anh em, bạn bè, tôi tớ ăn uống: “Hỡi anh em trong nhà, hỡi bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta, chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới…”. Tiếng mời chào sang sảng như chính tấm lòng hào hiệp của chàng Đăm Săn. Chàng đã thiết đãi bạn bè, dân làng bằng những vật chất đầy đủ sang trọng, bằng niềm vui thân ái, khiến cho “cả một vùng nhão ra như nước” vui tới mức “lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mai đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng, ếch nhái dưới gầm nhà, kì nhông ngoài bãi thì kêu inh ỏi suốt ngày đêm”. Bạn bè của chàng đông đúc: “Các cô gái đi lại vú đụng vú, các chàng trai đi lại ngực đụng ngực”. Không khí ăn mừng như thế này bây giờ mới có. Bởi bây giờ người Ê-đê mới có người thủ lĩnh anh hùng dũng cảm, hào hiệp đến thế. Đó chính là niềm tự hào sâu sắc của người dân Ê-đê về vị tù trưởng Đăm Săn.
Cách xây dựng hình tượng đẹp đẽ lớn lao của người anh hùng trong không khí đông vui nhộn nhịp, lớn mạnh của cộng đồng là một đặc điểm nổi bật của sử thi Tây Nguyên. Người anh hùng sử thi được toàn thể cộng đồng suy tôn tuyệt đối. Qua người anh hùng ta thấy được sự phát triển, ý chí thống nhất của toàn thể cộng đồng Ê-đê – một biểu hiện quan trọng của ý thức dân tộc.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 4Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 5
Sử thi là một thể loại văn học độc đáo, Việt Nam ta đã sưu tầm được khá nhiều bộ sử thi có giá trị từ các dân tộc thiểu số như Mường, Thái và các dân tộc anh em ở Tây Nguyên. Song song với văn hóa cồng chiêng thì sử thi cũng là một di sản văn hóa phi vật thể mang tầm thế giới, cần được bảo tồn và phát huy hơn nữa. Chiến thắng Mtao Mxây là một đoạn trích ngắn trong bộ sử thi khá nổi tiếng Đăm Săn của đồng bào Tây Nguyên, kể về một trong những chiến công lẫy lừng của người anh hùng Đăm Săn.
Sử thi là một thể loại văn học có dung lượng rất đồ sộ, từ vài nghìn câu tới hàng vạn câu, tái hiện được những nội dung mang tầm vóc lớn lao. Thuộc loại hình tự sự dân gian. Khi xây dựng nhân vật hình tượng của sử thi thì thường là nhân vật có tầm vóc phi thường, có nhiều chiến công kỳ tích, hào hùng, là niềm tự hào cho cả dân tộc. Sử thi có thể được kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, giọng điệu tráng lệ. Có hai loại là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng.
Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây nằm trong chương 34 của sử thi Đăm Săn, kể về một trong những chiến công nổi bật nhất của Đăm Săn trong cuộc chiến với tù trưởng trưởng Sắt Mtao Mxây, để giành lại vợ, đồng thời mở rộng lãnh thổ, đất đai. Hình tượng người anh hùng Đăm Săn được xây dựng một cách đẹp đẽ và hùng tráng.
Đầu tiên hình tượng nhân vật Đăm Săn hiện lên trong trận chiến đấu với Mtao Mxây. Trước khi cuộc chiến bắt đầu, Đăm Săn sau khi nghe tin vợ mình là Hơ Nhị bị bắt đi đã rất tức giận. Chàng đã đến tận chân cầu thang của nhà Mtao Mxây, để gọi kẻ thù ra khiêu chiến, để trả thù. Nhưng ngược lại với sự dũng cảm, thiện chiến của Đăm Săn thì Mtao Mxây lại sợ hãi, nhút nhát trước sự hùng hổ của Đăm Săn mà không dám bước xuống để đối mặt, chỉ đến khi bị Đăm Săn dọa phá nhà thì hắn mới dám xuống. Mtao Mxây bước xuống với phục trang lộng lẫy, bệ vệ nhưng dáng điệu lại tần ngần, do dự không có khí thế của một vị anh hùng.
Đăm Săn đã có những lời khiêu chiến “Ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy”, với kẻ thù nhưng không được đáp ứng, thậm chí còn bị trêu tức “Tay ta đang còn bận ôm vợ hai của chúng ta ở trên nhà này cơ mà”. Vì lẽ đó Đăm Săn càng nổi giận hơn, lời của chàng trở nên giục giã và mang tính đe dọa, đòi bổ đôi sàn hiên, cầu thang, đốt nhà Mtao Mxây. Mtao Mxây sợ hãi đành phải xuống, nhưng không quên nhắc nhở Đăm Săn không được làm hại mình. Thấy vậy Đăm Săn đã khảng khái khẳng định sẽ không làm trò đánh lén, kèm theo đó là trạng thái khinh bỉ dành cho sự nhút nhát của Mtao Mxây. Đăm Săn ngầm so sánh kẻ thù với những con lợn nái, con trâu của nhà hắn mà chàng không thèm đâm, không thèm để vào mắt. Qua những lời thoại và hành động thẳng thắn như vậy, ta có thể thấy được Đăm Săn là một con người đàng hoàng, luôn trong thế chủ động, mang trong mình tinh thần thượng võ của một người anh hùng. Còn Mtao Mxây thì lại là kẻ yếu đuối nhát gan, chỉ biết làm trò lén lút, châm chọc, ghen ăn tức ở, ỷ mạnh ăn hiếp phụ nữ, không xứng là một đấng nam nhi.
Trước lời khiêu khích, thách đấu của Đăm Săn, Mtao Mxây buộc phải chấp nhận thách đấu, tại cuộc chiến ta lại càng hiểu rõ về con người của chàng Đăm Săn. Cuộc chiến gồm có 4 hiệp, trong hiệp 1 Đăm Săn đã yêu cầu Mtao Mxây múa khiên trước nhưng Mtao Mxây lại tìm mọi cách để đùn đẩy, tự nhận mình còn non yếu, không dám múa trước. Tuy nhiên cuối cùng hắn vẫn phải múa trước, còn Đăm Săn đứng yên không nhúc nhích. Trong đôi mắt của Đăm Săn, Mtao Mxây múa khiên lạch xạch như một quả mướp khô, thậm chí chàng còn có chút khinh bỉ, hài hước hỏi: “Miếng múa ấy ngươi học ai vậy? Ngươi múa chơi đấy phải không, ơ diêng?” . Tuy nhiên Mtao Mxây không hề biết xấu hổ, lại còn khoe khoang những chiến tích chẳng biết có thật hay không của mình. Còn Đăm Săn lại rất khiêm tốn, thật thà, không khoe khoang gì cả.
Trong hiệp 2 đến lượt Đăm Săn rung khiên múa, chàng múa vừa khỏe, vừa đẹp, vừa dũng mãnh, lại nhanh nhẹn phóng qua đồi tranh, đồi lồ ô, khiến cho Mtao Mxây phải chật vật khó khăn bước cao bước thấp đuổi theo từ bãi này tới bãi kia, đầy thảm hại. Sự kém cỏi của Mtao Mxây càng thể hiện khi hắn phản đòn mà chẳng chém nổi kheo chân của Đăm Săn thay vào đó là chắm phập vào cái chão cột trâu. Đăm Săn lại càng thêm coi thường hắn, mà hỏi chế giễu: “Sao ngươi lại chém cái chão cột trâu? Còn kheo chân ta ngươi dành làm gì?”, nhân vật Mtao Mxây lại càng trở nên hài hước hơn.
Trong hiệp ba vì cay cú Mtao Mxây yêu cầu Hơ Nhị ném trầu cho ăn nhưng trớ trêu hắn lại chẳng bắt trúng mà bị Đăm Săn nhanh tay chụp được, chàng ăn rồi thì sinh lực tăng lên bội phần. Lúc này đây Đăm Săn nhường cho Mtao Mxây chạy trước để chàng đuổi. Chàng múa khiên, “múa trên cao gió như bão”, “múa dưới thấp gió như lốc”, múa đến mức đồi tranh bật rễ, núi phải nứt vỡ, điều đó càng khẳng định cái tài năng và sức mạnh phi thương của người anh hùng Đăm Săn. Rồi thì chàng nhanh nhẹn ra những đòn tấn công mạnh mẽ, trực diện vào đùi, vào người Mtao Mxây nhưng do hắn mặc giáp sắt nên không hề hấn gì. Một chi tiết rất ấn tượng đó là khi đã thấm mệt Đăm Săn đã thấm mệt, chàng vừa chạy vừa ngủ, rồi mộng thấy ông, được ông trời chỉ cho cách bại Mtao Mxây. Chi tiết này đã minh chứng cho quan điểm ở hiền gặp lành, người tài giỏi chính trực chắc chắn được thần phật giúp đỡ để đánh bại cái ác. Kết thúc trận chiến, khi Mtao Mxây đã đại bại, Đăm Săn truy sát đến tận cùng, không để cho tên này sống sót dù hắn đã van xin được nộp cống phẩm để thoát chết. Nhưng Đăm Săn đã quyết tiệt chặt đầu Mtao Mxây, phòng trừ hậu họa về sau.
Hình tượng của Đăm Săn còn hiện lên trong cảnh dẫn nô lệ về sau chiến thắng. Thông thường sau khi giết thủ lĩnh, thì tôi tớ của kể đó chắc chắn cũng bị tàn sát để diệt trừ hậu họa, tránh rắc rối về sau này. Nhưng ở Đăm Săn lại khác, ở chàng toát lên chí khí của người anh hùng vừa dung mãnh cũng lại độ lượng, không lạm sát người vô tội mà tìm cách quy hàng họ. Đây cũng là lối ứng xử đầy cao đẹp của người anh hùng thời bấy giờ. Sau khi dẫn nô lệ về, Đăm Săn lại cho mở tiệc mừng, mổ trâu mổ bò, tiếng chiêng trống rầm rộ. Bạn bè khách khứa nhiều vô kể, chàng hiếu khách, trò chuyện không biết mệt. Điều ấy càng thể hiện cái danh tiếng và chí khí tốt đẹp của người anh hùng Đăm Săn đã vang danh khắp chốn. Chàng là hiện thân của phe chính nghĩa, đem lại cuộc sống no đủ cho dân của bôn làng mình, đem lại cho dân làng cảnh trù phú giàu có mà trước đây chưa từng ai làm được bao giờ.
Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây trích trong sử thi Đăm Săn đã cho chúng ta một cách nhìn ấn tượng và mới lạ về hình tượng người anh hùng Đăm Săn trong công cuộc chiến đấu với kẻ thù để giành lại vợ, đồng thời cũng thể hiện được được cái bản lĩnh mạnh mẽ, chính nghĩa của Đăm Săn đã đem lại bình yên cho buôn làng, đem lại nhiều của cải, đem lại sự giàu có và trù phú. Đồng thời cách cư xử và tính cách của chàng xứng đáng là một tù trưởng thống lĩnh cả một buôn làng hùng mạnh. Đoạn trích còn giáo dục cho con người quan điểm chính luôn chiến thắng tà, người tốt sẽ luôn được thần phật giúp đỡ.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 4
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 3Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 4
Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây là một trong những đoạn trích tiêu biểu nằm trong chương 34 của bộ sử thi Đăm Săn. Qua đoạn trích, ta không chỉ thấy được sức mạnh cộng đồng, con người Tây Nguyên mà còn cảm nhận được vẻ đẹp uy nghi, hùng tráng của người anh hùng sử thi. Điều đó được thể hiện rõ qua nhân vật người tù trưởng Đăm Săn với chiến công lẫy lừng.
Sức mạnh và tài năng của Đăm Săn trước hết được thể hiện qua cuộc đấu với Mtao Mxây. Cuộc đấu xảy ra khi Đăm Săn nghe tin vợ mình bị bắt, đó là ngòi nổ Mtao Mxây gây ra, Đăm Săn chủ động tới trước chân cầu thang của hắn để thách đấu. Vẻ uy nghi cùng những lời lẽ bản lĩnh, thách thức của chàng khiến Mtao Mxây phải sợ hãi, phân vân ” Xuống, giêng! Xuống, giêng!….hun cái nhà của người cho mà xem”. Mtao Mxây đành chấp nhận bước xuống trong nỗi lo sợ bị Đăm Săn đâm lén, nhưng đời nào một anh hùng lại làm chuyện tiểu nhân, chỉ có kẻ bỉ ổi mới chực chờ người khác không để ý mà ra tay hành động “Sao ta lại đâm ngươi…..ta cũng không thèm đâm nữa là”. Rõ ràng trong lời nói của Đăm Săn đã thể hiện rõ khí chất của một bậc anh hùng, mạnh mẽ, dứt khoát và quyết liệt. Khác với một Mtao Mxây hèn nhát, tiểu nhân, thích khích bác người khác mà thiếu bản lĩnh. Khi hắn bước xuống với xiêm áo lộng lẫy tựa vị thần, vũ khí sắc bén với gươm óng ánh cầu vồng trong cái dáng vẻ tần ngần do dự, bước đi mà chẳng dám thì cũng là lúc mà hình ảnh Đăm Săn được nổi bật hơn.
Bước vào trận chiến, Đăm Săn nhường cho hắn múa khiên trước, vậy mà hắn tìm cách để ép chàng mua trước bằng lời lẽ hiếu thắng, khoe khoang :” người mới là người múa trước…..đã gãy mất cánh”. Sau cùng hắn vẫn múa trước với những đường múa chán nản, ” kêu lạch xạch như quả mướp khô”, Đăm Săn vẫn đừng im nhìn hắn mua một cách khinh bỉ, ” Miếng múa ngươi học ai đấy, ngươi múa chơi đấy phải không?”. Vậy mà hắn vẫn không thôi khoe khoang những vẻ vang của mình, còn Đăm Săn cứ việc múa những đường gươm đầy điêu luyện, thể hiện một tài năng xuất chúng của mình ” Đăm Săn rụng khiên khiên múa…..vun vút qua phía tây”.
Sự đối lập giữa màn đấu kiếm đã cho thấy một Đăm Săn đầy hùng dũng trong chiến trận, một kẻ khó lòng ai có thể vượt qua. Nhìn thấy sức mạnh ấy của chàng, Mtao Mxây phải vội cầu cứu Hơ Nhị nhưng miếng trầu nàng trao lại bị Đăm Săn chụp được, lúc này sức mạnh và sinh lực của chàng càng tăng lên gấp bội. Rồi tiếp tục là những trận múa, những đòn đánh đuổi mạnh mẽ , thần tốc vào kẻ địch ” Thế là Đăm Săn lại múa…..Chàng đâm vào người Mtao Mxây cũng không thủng”. Được sự trợ giúp của ông Trời, Đăm Săn liền dùng chày mòn ném vào vành tai địch, truy đuổi đến cùng , hắn phải van xin cầu phúc, nhưng sự kiện quyết của Đăm Săn đã giết chết hắn, đầu Mtao Mxây bị đem bêu khắp đường.
Chiến thắng Mtao Mxây không chỉ là chiến thắng cá nhân mà còn là chiến công của cộng đồng. Bởi vậy mà khi Đăm Săn kêu gọi mọi người đi cùng đều được nhân dân tin tưởng đi theo “Ơ ngân chim sẻ, ơ vạn chim ngói….chúng ta về nào!”. Với những người vô tội, chàng không hề một chút mảy may trách móc, trái lại muốn họ cùng mình xây dựng một cộng đồng giàu mạnh, thịnh vượng hơn. Đó là vẻ đẹp của một tấm lòng lơn, tấm lòng rộng lượng vì nhân dân.
Không chỉ mang vẻ đẹp về tài năng, phẩm chất, ở Đăm Săn còn có cả vẻ đẹp về ngoại hình. Trong bữa tiệc thiết đãi mừng năm mới, Đăm Săn uy nghi và to lớn như một tướng lĩnh thư thái, một dũng tướng hào hùng “Chàng nằm trên võng….ở dưới đất là một cái nông hoa”, ” Ngực quấn chéo một tấm mền…..Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ”. Đánh tiếng Đăm Săn vang dội khắp mọi miền, đến cả vạn vật sông núi cũng phải kính trọng, nể phục. Cộng đồng trong tay Đăm Săn ngày một phát triển, giàu có chính là nhờ phúc phần và tài năng của vị tù trưởng anh minh.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 2Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 3
Nhận định về sử thi Đăm Săn, nhà nghiên cứ Nhi-cu-lin nhận xét: “Sử thi Đăm Săn là câu chuyện thơ về cuộc đời của người dũng sĩ và những chiến công của chàng. Những người diễn xướng không chỉ ca ngợi thủ lĩnh của bộ lạc là Đăm Săn mà cất lời ca ngợi tất cả những người của cộng đồng – tất cả người làng”. Đây là nhận định hoàn toàn xác đáng, ngắn gọn để thấy được vẻ đẹp phẩm chất, ngoại hình của người anh hùng Đăm Săn.
Trước hết, Đăm Săn mang vẻ đẹp hình thể khỏe mạnh cường tráng. Vẻ đẹp hình thể của chàng không được miêu tả từ đầu đoạn trích, mà chủ yếu tập trung ở cuối đoạn trích, khi ăn mừng chiến thắng trở về. Hình thể cường tráng, vạm vỡ: “Bắp chân chàng to bằng cây xà nàng, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc: Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ”. Đoạn văn ngắn nhưng tác giả sử dụng hàng loạt biện pháp nghệ thuật so sánh, phóng đại trùng điệp, liên tiếp nhau để làm nổi bật vẻ đẹp hình thể của Đăm Săn. Qua đó thể hiện tình cảm yêu quý, kính trọng và ngợi ca vẻ đẹp của chàng, đồng thời cũng là sự khẳng định vẻ đẹp sức mạnh của cộng đồng.
Không chỉ đẹp về ngoại hình, Đăm Săn còn hội tụ đầy đủ trong mình phẩm chất anh hùng, phẩm chất đó được thể hiện rõ trong trận chiến với Mtao Mxây. Mtao Mxây cướp vợ Đăm Săn trong khi chàng đang đi làm nương cùng bà con trên rẫy. Khi trở về buôn, Đăm Săn dẫn mọi người đến buôn làng của Mtao Mxây để khiêu chiến. Trước thái độ ngạo mạn, khiêu khích của Mtao Mxây: “Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà”, Đăm Săn càng tỏ ra kiên quyết, mạnh mẽ hơn: “Xuống ngay, riêng! Xuống, riêng”. Thái độ của chàng vô cùng dứt khoát, dồn kẻ thù vào cuộc giao đấu, chàng quyết sống chết với Mtao Mxây một trận để phân chia thắng bại. Đăm Săn và Mtao Mxây trải qua hai hiệp đấu. Mỗi hiệp chàng lại hiện lên với một vẻ đẹp khác nhau.
Hiệp thứ nhất, chàng múa những đường khiên vô cùng đẹp mắt: “Đăm Săn rung khiên múa. Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía Đông, vun vút qua phía Tây”. Thủ pháp phóng đại đã cho thấy sức mạnh, vẻ đẹp phi thường của Đăm Săn. Càng về sau sức mạnh của Mtao Mxây càng yếu, hắn yêu cầu Hơ Nhị ném cho mình thêm miếng trầu để gia tăng sức mạnh, nhưng Đăm Săn đã nhanh chóng đoạt được miếng trầu, khiến cho sức mạnh của chàng tăng lên gấp bội. Sự xuất hiện của miếng trầu và người vợ có ý nghĩa đặc biệt với Đăm Săn. Hơ Nhị là vợ chính thức của chàng, bởi vậy, miếng trầu ném ra Đăm Săn bắt được chính là tình yêu tiếp sức cho chàng, để Đăm Săn phóng giáo trúng đùi Mtao Mxây.
Không chỉ là một anh hùng, Mtao Mxây còn là người có lòng nhân hậu và đức khoan dung. Trong đoạn trích cũng như toàn bộ tác phẩm ta thấy rằng không có chi tiết nào nói về việc Đăm Săn đi cướp bóc của buôn làng khác. Chàng đến buôn làng của Mtao Mxây mục đích là để đòi lại vợ. Sau khi giết chết Mtao Mxây, dân làng không còn ai đứng đầu, họ cần một tù trưởng để dẫn dắt, cần một cộng đồng để chung sống. Bởi vậy, Đăm Săn mới ra lời ướm hỏi và kêu gọi họ: “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! Ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”. Chàng còn gõ vào mạch, vào phên từng nhà trong làng. Những cử chỉ hành động đó cũng đủ cho thấy sự chân thành của chàng. Đáp lại sự chân thành đó, dân làng: “Không đi sao được, làng chúng tôi phía bắc đã mọc cỏ gấu, phía nam đã mọc cỏ hoang, người giàu cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa”. “Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến, như mối. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”. Không khí trở về tấp nập, nhộn nhịp, buôn làng của Đăm Săn càng trở nên vững mạnh, giàu có và thịnh vượng hơn.
Ngoài ra, cũng cần thấy rằng Đăm Săn còn là người trọng tình nghĩa, ghi nhớ công ơn tổ tiên và những người đã ngã xuống. Mặc dù đoạn trích không miêu tả cảnh đổ máu, nhưng chắc chắn rằng trong trận đấu đó đã có rất nhiều người ngã xuống. Bởi vậy lễ cúng người mất và thần linh để tưởng nhớ và biết ơn những người đã hi sinh vì nghĩa lớn đã được tổ chức. Lễ vật dùng cúng thần, tổ tiên vô cùng long trọng và hậu hĩnh để cầu sức khỏe, bình yên và sự thịnh vượng. Sau đó lễ ăn mừng chiến thắng cũng diễn ra hết sức long trọng, tưng bừng: tiếng cồng chiêng vang lên khắp nơi, người đến từ bốn phương, chật ních. Ai cũng được đón tiếp long trọng, ăn uống no say thỏa thích.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 1Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 2
Từ bao đời nay, người Ê-đê đã cùng quây quần bên bếp lửa, nghe không biết chán từ đêm này sang đêm khác sử thi Đăm Săn, bài ca về người tù trưởng anh hùng của dân tộc mình với những chiến công hiển hách trong xây dựng phát triển buôn làng và bảo vệ cộng đồng chống lại bao kẻ thù hung hãn. Trong những chiến công lẫy lừng ấy, ngất ngây lòng người vẫn là đoạn Chiến thắng Mtao Mxây, chứng tỏ tài năng, bản lĩnh, lòng dũng cảm phi thường và sức mạnh vô địch của Đăm Săn.
Sở dĩ xảy ra cuộc chiến này là do Mtao Mxây (tù trưởng sắt) đã cướp Hơ Nhị – vợ của Đăm Săn. Đối với người Ê-đê theo chế độ mẫu hệ, việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục của cả cộng đồng. Chiến thắng Mtao Mxây là lần thứ hai Đăm Săn phải chiến đấu với kẻ thù để giành lại người vợ, chứng tỏ sự hùng mạnh của Đăm Săn, Chàng phải đối mặt với kẻ thù hung bạo và cũng có sức mạnh phi thường không kém. Hàng loạt những hình ảnh so sánh trong đoạn trích cho thấy rõ sự tương phản giữa Đăm Săn với kẻ thù, làm nổi bật lên sự hào hùng của chàng và sự thảm hại của Mtao Mxây. Đó chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật đoạn trích này, tôn vinh vẻ đẹp người anh hùng Đăm Săn.
Vẻ đẹp Đăm Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của Mtao Mxây. Tù trưởng Sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của chàng. Hình ảnh Đăm Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường. Hình ảnh so sánh thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng. Tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre thành ba khúc, xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng. Khi giáp chiến cùng Đăm Săn, dù ngôn ngữ sử thi miêu tả Mtao Mxây cũng rất đẹp, rất dũng mãnh nhưng vẫn lộ ra sự khiếp nhược trước Đăm Săn. Lời nói của hắn với chàng lộ ra sự hèn nhát: Ngươi không được đâm ta khi ta đang đi xuống đó, nghe. Đáp lại Đăm Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ kẻ thù bằng tư thế đàng hoàng của mình: Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi xuống nhỉ? Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta củng không thèm đâm nữa là.
Cuộc đối đầu của Đăm Săn với Mtao Mxây là cuộc đối đầu giữa hai tù trưởng dũng mãnh. Phẩm chất anh hùng theo cách nhìn sử thi là ở sự chiến thắng bằng sức mạnh và sự can đảm. Cuộc đối đầu sinh tử ấy không có chỗ dung thân cho kẻ nào hèn nhát hơn. Trong tình cảm tôn vinh người anh hùng của buôn làng, mọi cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của Đăm Săn đều nổi bật, vượt trội hơn kẻ thù. Chúng ta cùng được chứng kiến màn thi tài mùa khiên thú vị: Mtao Mxây thể hiện rõ sự khoác lác khi lời nói của hắn được minh chứng bằng tiếng khiên kêu lộc cộc, lạch xạch như tiếng những quả mướp khô, còn Đăm Săn đã dập tắt nhuệ khí của hắn bằng sức mạnh phi thường trong màn múa khiên độc đáo. Ngôn ngữ sử thi khoa trương sức mạnh ấy ngang sức mạnh tự nhiên: Một bước nhảy, chàng vượt qua mấy đồi tranh. Một bước lùi, vượt qua mấy đồi mía. Tiếng gió khiển rít vù vù như dông bão, cây cối nhà cửa ở xung quanh củng nghiêng ngả. Lần múa khiên thứ hai của chàng còn ghê gớm hơn bởi dồn chứa sức mạnh trừng phạt Mtao Mxây. Sức mạnh Đăm Săn có được còn nhờ sự trợ lực của người vợ Hơ Nhị khi nàng ném trâu và thuốc cho chàng để sức lực tăng lên gấp bội.
Đăm Săn không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp chàng giành lại người vợ yêu quý. Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông trời. Người anh hùng sử thi luôn có mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên. Trời đã giúp chàng đánh rơi áo giáp của Mtao Mxây. Khi không còn áo sắt, hắn thật thảm hại và hèn nhát khi lần lượt chạy trốn vào chuồng heo, chuồng trâu, khi sắp chết lại buông ra những lời hèn nhát, ông Trời chỉ đóng vai trò hỗ trợ Đăm Săn, còn chính chàng mới là người kết liễu kẻ thù, đòi lại danh dự, cướp lại người vợ được trời tác thành. Giết Mtao Mxây, chính nghĩa thuộc về Đăm Săn. Chiến thắng được tôn vinh cùng với việc Đăm Săn được sở hữu tất cả tài sản, dân làng, tôi tớ của hắn. Quyền sở hữu này là đặc trưng gắn với thời kì chuyển từ công xã thị tộc sang chiếm hữu nô lệ, làm nên vinh quang của người anh hùng. Bởi thế hình ảnh trong sử thi được mô tả với quy mô hoành tráng: mọi người tình nguyện theo Đăm Săn đông như bầy hươu nai, lố nhố như đàn kiến cánh, như bầy kiến đen, như đàn mối trắng. Chàng thêm quyền uy, thêm nhiều chiêng núm, chiêng bằng – của cải trở thành biểu tượng sức mạnh tuyệt đối của người anh hùng.
Chính vì thế, để xứng đáng với chiến công cũng phải có một tiệc ăn mừng chiến thắng thật kì vĩ. Lời kêu gọi của Đăm Săn có sức mạnh hiệu triệu muôn người như một, bời chàng đem lại niềm vinh quang chiến thắng, đem lại sự bình yên cho bến nước buôn làng. Lễ cúng mừng chiến thắng hào phóng cũng là để tôn vinh xứng đáng: Hãy lấy bảy chung rượu, bảy con trâu đực, bảy con heo thiến để cúng cho Đăm Săn này đã chiến thắng Mtao Mxây, để ta được như cây cổ thụ cao vút. Dấu ấn tâm linh sau chiến thắng cho thây Trời đứng về phía Đăm Săn. Không khí hội còn náo nức tưng bừng với chiêng trống vang lừng khiên vỡ cả sàn nhà, làm bay mái tranh lợp nhà, con khỉ con vượn mải nghe mà quên đi hái trái cây, những con voi và con tê giác cũng phải lắng nghe mà quên cả cho con bú. Nổi bật giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đăm Săn – tù trưởng hùng mạnh ít ai sánh kịp.
Ngay cả trong không khí yên bình của cộng đồng, vẻ đẹp ấy vẫn nổi bật từ ngoại hình đến hành động: mái tóc dài cuồn cuồn thả xuống một cái chiêng, uống rượu không bao giờ say, ăn uống không bao giờ thấy no. Hơn thế nữa, ngôn ngữ phóng đại của sử thi đã so sánh chàng ngang sức mạnh thần linh: Oai linh vang đến tận thần núi phía Đông, đến tận thần núi phía Tây. Hình ảnh Đăm Săn sau chiến công này được mô tả phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tự hào về người anh hùng tiêu biểu của cộng đồng: Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đăm Săn quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trổ sắc bén. Đăm Săn hùng cường ngay từ trong lòng mẹ, vẻ đẹp ấy chỉ có thể xuất hiện trong sử thi anh hùng, chỉ có ngôn ngữ sử thi mới đem lại những vẻ đẹp độc đáo đến thế.
Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đăm Săn trong chiến công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bến nước, lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi. Sử thi anh hùng Đăm Săn quả thật, đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân tộc Ê-đê, thành di sản quý báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi rực rỡ với vẻ đẹp: một đi không trở lại.
Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn số 1
Nhân vật Đăm Săn trở thành biể tượng bất diệt của dân tộc Ê đê. Bên cạnh anh hùng Đăm Săn còn có rất nhiều hình tượng người anh hùng đại diện cho cộng đồng được khắc họa như Đăm Di, Xing Nhã, Khinh Dú (Êđê), Đăm Noi (Ba-na),.. từ đó khẳng định với thế giới về một Việt Nam với 54 dân tộc giàu mạnh, tự lực, tự cường.
Đăng bởi: Nguyệt Phạm
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích người anh hùng Đăm Săn trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao-Mxây”
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Ô
Phân tích nhân vật Ô-đi-xê bạn đọc cảm nhận được nhiều phẩm chất đáng quý. Những phẩm chất đó tượng trưng cho ước mơ cao đẹp của người Hy Lạp cổ đại trong quá trình khám phá thế giới. Vậy sau đây là dàn ý và bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc.
a. Mở bài: Giới thiệu đoạn trích và nhân vật Ô-đi-xê.
b. Thân bài:
– Hoàn cảnh, sự kiện mà Ô-đi-xê phải đối mặt: Sau khi nghe lời tiên đoán của Xi-ếc-xê, Ô-đi-xê và các thuyền viên của mình tiếp tục cuộc hành trình trên biển. Chàng cùng đồng đội đi qua đảo của các nàng Xi-ren có giọng hát mê hoặc và vùng biển nơi hai con quái vật Ka-ríp, Xi-la sinh sống.
– Vẻ đẹp phẩm chất của Ô-đi-xê:
Ô-đi-xê nổi bật với vai trò là một người lãnh đạo (cách chàng gọi các thuyền viên, an ủi, động viên các bạn của mình khi đối mặt với thử thách).
Ô-đi-xê là hiện thân của một vị anh hùng (qua chi tiết chàng mặc áo giáp, cầm trong tay hai ngọn lao khi chuẩn bị đối mặt với Ka-ríp và Xi-la).
– Nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo.
Ngôi kể thứ nhất giúp câu chuyện trở nên chân thực.
– Đánh giá nhân vật: Qua nhân vật, tác giả muốn gửi gắm ước mơ và khao khát khám phá, chinh phục thế giới của người Hy Lạp cổ đại. Hai con quái vật Ka-ríp và Xi-la tượng trưng cho những hiện tượng tự nhiên khắc nghiệt mà con người phải vượt qua.
c. Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp nhân vật, nêu cảm nghĩ về nhân vật.
Hô-me-rơ là nhà thơ mù, ông sinh ra và lớn lên tại một gia đình nghèo bên kia sông Mê-lét, tuy khiếm khuyết về cơ thể nhưng ông không lùi bước mà đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học với hai bộ sử thi đồ sộ “Ô-đi-xê” và “I-li-át”. Đặc biệt, sử thi “Ô-đi-xê” kể về hành trình trở về quê hương của Ô-đi-xê sau chiến thắng thành Tơ-roa; tác phẩm ngợi ca trí tuệ, lòng dũng cảm, nghị lực của con người với khát vọng chinh phục thế giới và ước mơ về một cuộc sống hòa bình. Đoạn trích “Gặp Ka-ríp và Xi-la” thuộc khúc ca XII của sử thi “Ô-đi-xê” nói về những thử thách đối với Ô-đi-xê và các bạn đồng hành khi gặp các quái vật biển.
Hình tượng Ô-đi-xê được xây dựng nổi bật với vai trò một người lãnh đạo. Trước hết, ta nhận thấy điều đó qua cách chàng gọi những thủy thủ của mình là “các bạn ơi”. Cách gọi này thể hiện sự gần gũi, bộc lộ sự tôn trọng của thuyền trưởng đối với các thuyền viên của mình. Ô-đi-xê luôn biết cách hướng dẫn mọi người. Sự quyết đoán, dũng cảm của chàng được thể hiện qua chi tiết: Nhét sáp vào tai các thuyền viên “Tôi lần lượt nút chặt tai cho các bạn đồng hành”. Ô-đi-xê đã dặn các bạn đồng hành trói bản thân chặt hơn nữa nếu chàng bị mê hoặc bởi tiếng hát các nàng Xi-ren “Nhưng các bạn phải lấy dây trói chặt ta vào cột buồm, để buộc ta phải đứng yên một nơi. Nếu ta van xin hoặc ra lệnh cho các bạn cởi trói cho ta, thì các bạn cứ việc trói chặt thêm nữa vào”. Có thể thấy, Ô-đi-xê là hiện thân của một người lãnh đạo có khả năng giải quyết mọi vấn đề, biết quan tâm và bảo vệ những người bạn của mình trước nguy hiểm. Chàng luôn mang trong mình sự nhiệt huyết và chân thành của người đứng đầu tập thể.
Thứ hai, khi các thuyền viên bị hoảng sợ, chàng đã an ủi, động viên, vực dậy tinh thần của mọi người bằng cách nhắc lại những thử thách, khó khăn họ đã vượt qua như: trốn khỏi tên khổng lồ Xi-clốp “Chúng ta chẳng phải là những người chưa từng qua thử thách. Tai họa đang chờ chúng ta chưa hẳn ghê gớm hơn hồi tên Xi-clốp đem cả sức mạnh hung tàn của hắn, nhốt chúng ta vào trong hang. Nhưng nhờ có lòng dũng cảm, với lời khuyên và mưu trí của ta, nên chúng ta đã thoát nạn, chắc các bạn vẫn còn nhớ rõ”. Sau khi an ủi, chàng giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng người: những người ngồi bên cọc chèo cần “đập sâu mái chèo xuống nước”, các bạn hoa tiêu “bạn phải tránh những màn sương và những ngọn sóng kia, cẩn thận cho thuyền ven theo dãy đá ngầm nọ, kẻo nó đi chệch hướng trong lúc bạn sợ tâm không biết, rồi trôi ào tới đằng kia mà đẩy chúng ta vào chỗ chết đó”. Trước những khó khăn, thử thách, Ô-đi-xê luôn giữ sự bình tĩnh, tự tin và là điểm tựa tinh thần cho mọi người.
Ô-đi-xê là hiện thân của một vị anh hùng dũng cảm khi dám đối đầu với khó khăn “tôi đã mặc bộ áo giáp quang vinh của tôi và nắm trong tay hai ngọn lao dài, ra đứng ở mũi thuyền”. Thông qua nhân vật Ô-đi-xê, người Hy Lạp xưa thể hiện khát khao về một người anh hùng có sức vóc, trí tuệ, dũng cảm. Nhân vật Ô-đi-xê là kết tinh những mong muốn, ước mơ của người Hy Lạp trong quá trình chinh phục tự nhiên. Những thử thách được đưa ra càng nổi bật lên những vẻ đẹp của người anh hùng. Hai con quái vật Ka-ríp và Xi-la tượng trưng cho những hiện tượng tự nhiên bí ẩn, nguy hiểm của đại dương như: xoáy nước, sóng ngầm,… mà con người phải đối mặt.
Advertisement
Qua đoạn trích “Gặp Ka-ríp và Xi-la”, người Hy Lạp cổ đại muốn ca ngợi trí tuệ và bản lĩnh của Ô-đi-xê trong vai trò là một người lãnh đạo. Bằng cách xây dựng nhân vật tinh tế và việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, tác giả đã thành công kể lại hành trình vượt biển trở về quê hương của Ô-đi-xê một cách chân thực. Qua đó, người đọc cũng có thể nhận thấy rõ những suy nghĩ, tâm trạng của người anh hùng. Với trí tưởng tượng phóng khoáng, tác giả đã đưa người đọc vào một thế giới đầy hấp dẫn.
Nhân vật Ô-đi xê được khắc họa với nhiều phẩm chất đáng quý. Những phẩm chất đó tượng trưng cho ước mơ cao đẹp của người Hy Lạp cổ đại trong quá trình khám phá thế giới. Hình tượng Ô-đi-xê được khắc họa nổi bật với hành động, cung bậc cảm xúc tự nhiên. Đoạn trích cũng cho ta thấy tài năng nghệ thuật của Hô-me-rơ.
Phân Tích 8 Câu Đầu Chí Khí Anh Hùng ❤️️ 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Đầu Chí Khí Anh Hùng ❤️️ 10 Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Văn Đặc Sắc, Liên Hệ Mở Rộng Dành Cho Các Em Học Sinh.
1.Mở bài phân tích 8 câu đầu Chí khí anh hùng:
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều
Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng.
2.Thân bài phân tích 8 câu đầu Chí khí anh hùng:
a. Chí khí người anh hùng trong bốn câu thơ đầu:
-Chỉ sau “nửa năm hương lửa đương nồng” với Thúy Kiều, Từ Hải đã quyết tâm lên đường tìm công danh, thỏa chí làm trai ở bốn phương. Đó là ý chí mạnh mẽ, tấm lòng quyết tâm phải làm nên nghiệp lớn.
-“Thoắt đã động lòng bốn phương”:
Từ “thoắt” thể hiện thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm mạnh mẽ, sự chuyển đổi nhanh chóng trong tâm lý của Từ Hải từ việc rời bỏ cảnh sống êm đềm, chuyển sang những ngày tháng bôn ba vất vả trong tương lai vì sự nghiệp.
“động lòng bốn phương” thể hiện tầm vóc lớn lao trong ý chí của nhân vật, cũng như ước mơ khao khát làm nên nghiệp lớn, làm chủ một phương của Từ Hải.
Hai từ “trượng phu” càng thể hiện tấm lòng trân trọng, yêu thương, bộc lộ lí tưởng của Nguyễn Du về dáng vóc của một người anh hùng thời đại quy tụ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
-“Trông vời trời bể mênh mang”, bộc lộ ý muốn vươn ra bể lớn, thoát khỏi cái bóng nam nhi tầm thường quanh quẩn bên vợ con, khát vọng mạnh mẽ về việc trả nợ công.
-“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” bộc lộ phẩm chất và vẻ đẹp của người anh hùng thời đại, tay không quyết tâm lập nghiệp, khẳng định ý chí, sự tự tin trong tâm hồn người trượng phu.
b. Ý chí anh hùng thể hiện trong đoạn đối thoại với Thúy Kiều:
c. Đặc sắc nghệ thuật: Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc.
3.Kết bài phân tích 8 câu đầu Chí khí anh hùng:
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Nêu cảm nhận của bản thân.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Nghị Luận Chí Khí Anh Hùng 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm rất nổi tiếng, trong đó phải kể đến tác phẩm nổi bật nhất là “Truyện Kiều”. Tác phẩm là lời phê phán xã hội phong kiến đương thời của Nguyễn Du đồng thời cũng là nơi gửi gắm mơ ước về một xã hội công bằng với người anh hùng xứng đáng là bậc trượng phu. Khát vọng ấy của Nguyễn Du được thể hiện qua nhân vật Từ Hải, đặc biệt là qua 8 câu thơ đầu trích đoạn “Chí khí anh hùng”.
Sau những biến cố thăng trầm đầu tiên của cuộc đời, Kiều những tưởng được giải thoát khi nàng bắt gặp Thúc Sinh. Thế nhưng với tính cách nhu nhược yếu đuối, Thúc Sinh đã không thể mang cho nàng một cuộc sống bình yên. Chính lúc này, nàng lại một lần nữa rơi vào tay của những kẻ buôn người Bạc Bà, Bạc Hạnh và trở lại kiếp kĩ nữ lầu xanh. Và cuộc đời Kiều đã kịp rẽ hướng khi nàng bắt gặp Từ Hải. Tài năng, nhân cách cùng nhan sắc của nàng đã khiến chàng Từ vô cùng khâm phục.
Vậy nên chàng đã giải thoát nàng khỏi chốn ô nhục và từ đó cùng nàng sánh duyên bên nhau:
Chẳng bằng lòng với cuộc sống hiện tại, Từ Hải đã quyết chí ra đi để dựng lên nghiệp lớn sau nửa năm mặn nồng cùng nàng Kiều tài sắc. Đoạn trích chỉ với mười tám câu thơ nhưng đã cho ta thấy được ý chí, lý tưởng lớn lao mà Từ Hải muốn gây dựng, đồng thời cũng cảm nhận được mơ ước lớn lao của Nguyễn Du về một người anh hùng chân chính.
Mở đầu đoạn trích, người ta như thấy được cuộc tình vô cùng lãng mạn của đôi trai tài gái sắc. Thế nhưng, sau hình ảnh đầy lãng mạn ấy lại là mở đầu của một cuộc chia lý vì chí lớn:
“Nửa năm” chẳng phải là khoảng thời gian dài, nhưng nửa năm đó, Kiều và Từ Hải đã vô cùng gắn bó, vô cùng “mặn nồng”. Từ “hương lửa” được Nguyễn Du sử dụng ở đây như một hình ảnh ước lệ của tình yêu. “Hương lửa đương nồng” tức là tình cảm của đôi trai tài gái sắc đang rất mặn nồng, tưởng chừng như chẳng thể xa cách. Thế nhưng ngay trong tình yêu, chàng trai Từ Hải cũng luôn nung nấu ý định ra đi vì lý tưởng của mình.
Ở đây, Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu” – một người đàn ông có tài năng, đức độ, có chí lớn. Vậy nên, chẳng ngạc nhiên khi người “trượng phu” ấy đã “động lòng” chuẩn bị ra đi cho lý tưởng của mình. Chàng muốn được vùng vẫy, muốn được thỏa chí trong “trời bể mênh mang”, muốn được thỏa sức mà tung hoành mà dựng lên nghiệp lớn. Hình ảnh “trời bể mênh mang” như muốn khẳng định khát khao của chàng.
Chính vì vậy, khi quyết chí ra đi, chàng vô cùng dứt khoát “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Quyết định nhanh chóng, trong dứt khoát của chàng “thoắt đa” đã được hiện thực hóa bằng hành động quyết liêt. Một mình cùng một thanh gươm, một con ngựa tốt, chàng quyết chí ra đi tìm kiếm lý tưởng cho mình một cách vô cùng kiên định.
Tư thế của chàng vô cùng oai phong, lẫm liệt, hành động dứt khoát, xứng danh với danh từ “trượng phu” mà Nguyễn Du đã đặt cho chàng. Không những thế, ông còn đặt chàng Từ vào một tư thế sánh ngang với trời bể mênh mang, với trời đất để khẳng định tầm vóc của chàng. Nguyễn Du vẽ lên một người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ với lý tưởng to lớn, sẵn sàng ra đi vì lý tưởng đó.
Bốn câu thơ đầu tuy ngắn ngủi nhưng đã cho ta thấy cảnh chia ly dứt khoát trong mặn nồng của Kiều và Từ Hải, đồng thời cũng chỉ ra tư thế hiên ngang, oai phòng, ý chí quật cường, hào hừng của người anh hùng mang tầm vóc vụ trụ này. Bằng những hình ảnh ước lệ, Nguyễn Du như muốn khẳng định ước mơ về người anh hùng thực hiện công lý của mình.
Sau những lời chia tay quyết liệt để ra đi của chàng Từ, Kiều đã tâm sự lòng mình cùng chàng:
Kiều chỉ một lòng một dạ được đi theo chàng, bởi nàng không muốn sống trong cảnh cô đơn, lạc lõng như trước. Chữ “tòng” mà nàng nói cũng là một trong những lễ nghi luân lý “phận gái tam tòng” của Nho giáo. Nó vô cùng hợp tình hợp lý. Thế nhưng, đáp lại lời Kiều, Từ đã nói rằng:
8 câu thơ đầu trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thật rõ nết hình ảnh người anh hùng Từ Hải “đội trời đạp đất ở đời”. Bằng bút pháp ước lệ tài hao của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được ý chí lớn lao của người anh hùng Từ Hải. Ý chí, lý tưởng ấy thật mãnh kiệt, kiên trung và to lớn, khẳng định vị thế của một người anh hùng mang tầm vóc của vũ trụ.
Đoạn trích đã vẽ lên hình ảnh người trượng phu quyết chí ra đi vì chí lớn, vì lý tưởng của mình với lời hứa hẹn trở về vinh quang. Nó thật đúng với ước mong của Nguyễn Du về một người anh hùng sẽ dám đứng lên chống lại cường quyền, mang lại hạnh phúc và đòi lại công bằng trong xã hội.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng 🌹 15 Bài Văn Mẫu
Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Đoạn trích này thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:
Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:
Từ Hải là một đấng nam nhi muốn “vẫy vùng” nên đã “động lòng bốn phương”. Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ “thoắt” vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình.
Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là “trượng phu” – người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến “hoa ghen”, “liễu hờn” của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng “vẫy vùng trong bốn bể” mà không một chút do dự, phân vân.
Một con người “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.
Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều – Từ Hải cũng không ngoại lệ:
Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật “tam tòng”: ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc “hương lửa đương nồng”, nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải – một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh.
Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:
Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình.
8 câu thơ đầu trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã miêu tả cuộc chia ly giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên” đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc “trượng phu” trong thiên hạ.
Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi “vẫy vùng trong bốn bể”, không vì “hương lửa đương nồng” mà chùn chân, nhụt chí.
Gửi đến bạn 🍃 Cảm Nhận Chí Khí Anh Hùng 🍃 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Truyện Kiều được xem là một đỉnh cao chói lọi của truyện thơ Nôm, là quốc hồn, quốc túy của dân tộc, một kiệt tác của văn học Việt Nam. Đọc tác phẩm ta không thể không xót xa, thương cảm trước một nàng Kiều tài hoa bạc mệnh, căm phẫn trước những Hoạn Thư ích kỉ, hẹp hòi với lòng ghen tuông ngút trời, Tú Bà độc ác, Mã Giám Sinh giả nhân giả nghĩa; đồng cảm trước một Thúc Sinh dù có chút nhu nhược nhưng là kẻ si tình, trọng tình trọng nghĩa.
Và đặc biệt, ta không thể quên được hình ảnh một Từ Hải đầu đội trời, chân đạp đất, một người hùng lí tưởng với những phẩm chất và chiến công phi thường. 8 câu thơ mở đầu đoạn trích Chí Khí anh hùng đã thể hiện rõ nhất cốt cách của người anh hùng này.
Trai anh hùng – gái thuyền quyên, tình yêu của Từ Hải và Thúy Kiều vượt bao sóng gió để đến được với nhau. “Chàng”và “thiếp” tuy hai mà một, hiểu rõ nhau, thông cảm, sẻ chia cùng nhau. Tình cảm đang mặn nồng, thì kẻ “trượng phu” lại nuôi chí lớn, ý nguyện lập công danh nơi biên ải xa xôi. Chàng đã tạm gác lại nỗi niềm riêng bên gia đình nhỏ để ra đi xây dựng sự nghiệp.
Điều đó cho thấy Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà còn người của chiến công và sự nghiệp hiển hách. Hình ảnh Từ Hải lên đường một mình một ngựa thể hiện khí phách của một người anh hùng dũng cảm, ra đi dứt khoát , không để niềm riêng vướng bận. Một người có chí khí mạnh mẽ, chí tang bồng phải làm nên nghiệp lớn, khát khao được vùng vẫy bốn bể năm châu. Đó là lí tưởng, là mục đích cao đẹp của một vị anh hùng nuôi chí lớn.
Sự nghiệp vinh quang đang đợi chàng phía trước. Từ ra đi không chút do dự, một lòng hướng về chí lớn tạo lập công danh. Động từ “thoắt” thể hiện sự nhanh chóng, quyết định một cách dứt khoát , chí từng hoành khắp bốn phương, người anh hùng chẳng thể để bản thân nghỉ ngơi khi chưa có công danh trong tay, cũng không thể giam mình trong không gian chật hẹp khi chí lớn chưa thành.
Quyết định ra đi chắc hẳn sẽ không dễ dàng với Từ Hải bởi bên cạnh chàng còn có người mình thương, nhưng đó là quyết định sáng suốt và vững vàng. Bởi trong con người Từ Hải luôn nung nấu chí nguyện anh hùng.
Một lần nữa, Từ khẳng định tình cảm khăng khít, gắn bó giữa Kiều và chàng nhưng đồng thời cũng có lời trách cứ nhẹ nhàng: Lòng dạ nhau đã hiểu, sao nàng chưa thoát khỏi những mong muốn tầm thường của bậc nữ nhi. Là người phụ nữ của bậc trượng phu phải thật cứng cỏi và mạnh mẽ. Thông qua lời của Từ, tình yêu thương và sự trân trọng Kiều được bộc lộ rõ nét.
Qua 8 câu thơ đầu trong đoạn trích Chí Khí anh hùng ta thấy được Nguyễn Du đã thể hiện ước mong về người anh hùng lí tưởng trong thời đại với khát vọng lớn lao và tấm lòng cao cả.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Thông thường, để làm nổi bật phẩm chất anh hùng của một hình tượng nhân vật, người ta hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh đặc thù là đối mặt với gian nan thử thách. Dân gian vẫn có câu “Lửa thử vàng gian nan thử sức”, lại câu “Gian nan là nợ anh hùng phải vay” là thế. Phải chiến thắng được những gian nan thử thách ấy thì mới khẳng định được bản lĩnh và chí khí anh hùng.
Những gian nan thử thách nào vậy? Thử thách ngoài mình và thử thách trong mình. Thắng những thế lực ngoài mình đã khó hơn thắng kẻ địch, thắng thiên nhiên đã khó nhưng thắng những thói thường trong mình còn khó gấp bội. Không ít người chiến thắng được uy vũ, nhuhg lại gục ngã trước những mời mọc đầy cám đỗ trong mình. Mà rốt cuộc, nói đến anh hùng là nói đến cái phi thường. Muốn làm chuyện phi thường thì cũng cần phải thắng được cái bình thường.
Nguyễn Du không chỉ khắc họa Từ Hải lập nên nhiều kỳ tích phi thường, ông còn làm nổi bật tính cách anh hùng của Từ Hải khi đặt nhân vật đối mặt và vượt lên cái bình thường. Đoạn trích Chí anh hùng này là thế. Ở đây có những vướng bận gia đình, có “Thói nữ nhi thường tình”. Nên bề ngoài có thể xem cái gian nan thử thách trong lòng mà Từ phải đổi mặt để giải quyết là vấn đề “anh hùng và mĩ nhân” – mĩ nhân cản bước, còn anh hùng thì vượt ải mỹ nhân.
Nghĩ thế không sai, nhưng cũng không hẳn. Xem kĩ, Kiều đâu có cản bước Từ Hải, Từ Hải đâu có rũ bỏ Kiều. Vậy, có thể coi đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc lứa đôi và lí tưởng anh hùng chăng? Cũng không hẳn, sau khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, Từ Hải đã có Kiều, đã sống cùng mỹ nhân.
Nhưng chỉ vậy thôi là chưa thỏa, điều Từ Hải muôn đó là phải tạo được sự nghiệp anh hùng nữa, bấy giờ trai anh hùng mới thật xứng với gái thuyền quyên. Nghĩa là Từ Hải muôn hướng tới một hạnh phúc phi thường. Chỉ bao giờ được thế, Từ Hải mới thỏa chí. Cho nên, xét cho cùng đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc nhỏ – bình thường và hạnh phúc lớn – phi thường.
Không cần phải đọc kĩ lắm cũng có thể thấy đoạn thơ đã tự hình thành hai phần nhỏ hơn. Phần một gồm bốn câu đầu: hình ảnh lên đường của Từ Hải. Phần hai là đoạn còn lại: cuộc đối thoại Từ Hải — Thuý Kiều khi Từ dứt áo ra đi. Cũng lạ, Nguyễn Du dựng cảnh Từ Hải lên đường trước, rồi lời từ biệt mới đến sau. Ở đây, dù chưa phải là khung cảnh nhân vật đang chọc trời khuấy nước, Nguyễn Du vẫn làm nổi lên tầm vóc của Từ Hải.
Hơn nữa, chưa phải bộc lộ minh bằng hành vi, mà mới chỉ qua lời nói – lời nói với vợ thôi, chí khí anh hùng của Từ Hải cũng đã toát lên mãnh liệt. Từ Hải ít nhiều đã được mô tả trong không gian tổ ấm. Điều này có lí của nó: tổ ấm thường tình không phải là cái không gian hợp với tầm vóc kẻ phi thường, nếu không nói là không gian ấy sẽ tù hãm người anh hùng. Ra khỏi cái tổ âm hương lửa đương nồng của hạnh phúc lứa đôi, Từ mới thực là Từ. Đúng thế, Từ Hải chỉ thực sự là mình trong không gian trời đất:
Sự nồng nàn của tình yêu, vị ngọt ngào của hạnh phúc có thể là chất xúc tác, cũng có thể là chất bào mòn chí khí kẻ anh hùng. Mỹ nhân có thể là động lực của kẻ anh hùng, cũng có thể đánh đắm những sự nghiệp anh hùng. Sau này, Chế Lan Viên có nói đến cái hình ảnh “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp – Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” là cũng theo nghĩa bào mòn, đánh đắm ấy, chúng từng là giấc mơ con đè nát bao cuộc đời cỏn con.
Từ Hải khấc mỹ nhân, hạnh phúc chỉ mới là một nửa đời chàng, tình nhân lãng mạn mới chỉ là một nửa con người chàng. Từ còn một nửa khác: một khách anh hùng với sự nghiệp cái thế. Một chữ “thoắt” đã cho thấy tính cách anh hùng của Từ. Đó là sự thức dậy mau lẹ của con người của một mái nhà. Trái lại, Từ sinh ra là thuộc về bốn phương. Ngang dọc bốn phương mới thực sự là sứ mạng, thực sự là cuộc sống của chàng. Rời khỏi một mái ấm, Từ đến với không gian thực của mình: không gian càn khôn trời đất.
Trong Truyện Kiều, chữ “thoắt” thường chứa đựng những biến cố, đôi khi là biến cố trọng đại. Có thể đó là biến cố đầy ngang trái “Thoắt mua về thoắt bán đi”. Có thể đó là biến cố đau thương “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương…”. Chữ “thoắt” này diễn ra âm thầm, nhưng thực sự cũng chứa đựng một biến cố lớn của đời Từ.
Bắt đầu từ giây phút ấy, Từ mới thực sự sông rồi chết lẫm liệt như một anh hùng cái thế. Và như vậy, chữ “thoắt” đã chia đời Từ Hải làm hai thật rành rẽ: nó là dấu ngắt cho một bản tình ca hùng tráng đồng thời mở đầu cho bản hùng ca bi tráng.
Đúng là Nguyễn Du đã khắc hoạ Từ Hải thật hoành tráng:
Đó là hình tượng tráng sĩ. Người đọc thơ cổ điển có thể liên tưởng đến một nhân vật khác cũng thuộc thế kỉ XVIII, trong Chinh phục ngâm:
Cả hai đều toát lên vẻ oai phong lẫm liệt đầy lý tưởng của những trang hào kiệt. Nhưng, nếu chàng chinh phu được tô điểm bằng sắc màu lãng mạn trong cái nhìn kiêu hãnh và trìu mến của nàng chinh phụ, thì Từ Hải lại được tạo hình bằng đường nét ngạo nghễ trên cái nền kỳ vĩ của không gian. Một đằng lẫm liệt cùng sắc phục, một đằng mênh mang khát vọng. Đằng là vẻ đẹp quý phái, đằng là vẻ đẹp phong trần.
Có thể nói, bên cạnh những hình ảnh “Chọc trời khuấy nước mặc dầu – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, hay “Phong trần mài một lưỡi gươm – Những phường giá áo túi cơm xá gì”, “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo…”thì “Trông vài trời bể mênh mang – Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” cũng là một bức chân dung hết sức hoàn hảo mà Nguyễn Du đã dành cho Từ Hải.
Đoạn hai là một màn đối thoại. Lời tác giả nhường hẳn cho lời nhân vật. Các nhân vật bộc lộ phẩm cách của mình qua ngôn ngữ của chính mình. Nếu ở Thuý Kiều là lối nói đúng mực của người đàn bà nề niếp, trọng bổn phận đạo lí, nhưng cũng không thiếu kiên tâm, thì ở Từ Hải là lối nói sắt đá, quyết đoán của một bậc trượng phu, song cũng không phải vô tình, Kiều viện đạo phu thê, Từ lại viện đạo tri kỷ. Kiều ứng xử theo lẽ bình thường, Từ ứng xử theo lối phi thường. Nàng muốn được theo chân Từ Hải
Kiều viện ra đạo lí phu thê thường tình vừa như một lý lẽ vừa như một thề nguyền để thuyết phục từ Hải. Nàng muốn được kề vai sát cánh chia ngọt sẻ bùi cùng chồng. Còn Từ Hải có chấp nhận cái thường tình không? Chấp thuận cái thường tình thì còn đâu là kẻ phi thường. Đó không thể là cung cách Từ Hải.
Nhưng Từ cũng không nỡ gạt đi một cách lạnh lùng, mà cũng viện ra những lý lẽ riêng để thuyết phục Kiều. Chàng xuất phát từ đạo lý khác: đạo lý tri kỷ. Từ Hải xem đạo tri kỷ cao trọng hơn đạo phụ thê. Một khi đã là tri kỷ, hiểu rõ lòng dạ của nhau, thì không nên câu nệ lễ phu thê theo thói thường của người đời:
Chỉ qua 8 câu đầu đoạn trích Chí khí anh hùng mà tác giả đã khắc họa được hình ảnh tình yêu son sắt của người vợ là Kiều dành cho Từ Hải, cũng phần nào làm nổi bật lên chí khí của người anh hùng một lòng vì nước, lòng tin vào bản thân trên cả chiến trường lẫn cả trong tình yêu.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Mở Bài Chí Khí Anh Hùng 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Trong nền văn học Việt Nam, “Truyện Kiều” được đánh giá là một trong những tác phẩm kiệt xuất nhất. Câu chuyện về cuộc đời người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh: Vương Thúy Kiều đã thu hút và làm thổn thức trái tim của biết bao thế hệ độc giả. Đặc biệt, những mối tình lãng mạn nhưng đầy trắc trở của nàng cũng góp phần làm nên sự lôi cuốn cho tác phẩm.
Trong đó, phải kể đến cuộc tình đẹp đẽ với người anh hùng đội trời đạp đất Từ Hải. Khác với vẻ thư sinh, “phong lưu tài mạo tót vời” của Kim Trọng, Từ Hải được khắc họa như một vị anh hùng đầy lí tưởng với chí hướng lớn lao. 8 câu thơ đầu trong đoạn trích “Chí khi anh hùng” đã lột tả được nét tính cách đặc biệt ấy.
Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư và lại rơi vào tay của Bạc Bà, Bạc Hạnh. Cuộc đời của nàng thật sự đã ứng nghiệm với lời tiên đoán của Nguyễn Du “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Nhưng may mắn trong bước đường lưu lạc đó nàng đã gặp được người trượng phu cứu vớt cuộc đời mình trong lần bị bắt vào lầu xanh thứ hai: Từ Hải. Tuy nhiên, sau thời gian ân ái mặn nồng, Từ Hải lại quyết định ra đi gây dựng sự nghiệp.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã vẽ nên hoàn cảnh chia tay và tư thế ra đi dứt khoát của người anh hùng Từ Hải:
Từ xưa đến nay bao giờ mĩ nhân lại chẳng phải là cửa ải khó vượt qua nhất đối với những kẻ nam nhi, những người anh hùng? Nhưng trong đoạn trích này Nguyễn Du đã đưa nhân vật anh hùng Từ Hải lên một tầm cao mới khi dụng tâm miêu tả sâu cách ứng xử của Từ với mĩ nhân, với hạnh phúc lứa đôi qua đó làm nổi bật cốt cách hơn đời của chàng.
Đáng ra khi đang vui hưởng cuộc sống “phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng” thì bất cứ ai cũng sẽ chìm đắm trong đó, ấy vậy mà mới có “nửa năm” Từ Hải lại không quên nghiệp lớn quyết lòng ra đi giữa lúc khó ra đi nhất, giữa lúc ái tình đang nồng thắm nhất. Cho nên nếu Kim Trọng được xem là người tình lí tưởng, Thúc Sinh là mối tình hiện thực của Thúy Kiều thì Từ Hải là bật anh hùng đội trời đạp đất cho cuộc đời nàng.
Từ Hải nào phải kẻ tầm thường “giá áo túi cơm” chỉ biết vui vầy bên người đẹp, nếu Từ không có chí hướng cao rộng ắt hẳn đã không xứng với từ “trượng phu” duy nhất mà Nguyễn Du ưu ái dành riêng cho mình. Việc chàng quyết chí ra đi là hoàn toàn phù hợp với tính cách của mình, từ “thoắt” với chi tiết “lên đường thẳng rong” đã vẽ nên rất linh hoạt của một con người ôm mộng cơ đồ như chàng.
Chính vì thế mà dù ai cũng biết Từ rất yêu, rất trọng Kiều nhưng cái chí tung hoành bốn phương đã lớn hơn tình cảm đó, giúp chàng vượt qua trạng thái bịn rịn, lưu luyến một cách nhẹ nhàng. Cụm từ “lòng bốn phương” cũng được hiểu là “chí tang bồng” cho nên lúc Từ ra đi vì “động lòng bốn phương” hoàn toàn không phải là đi thăm thú đó đây mà là đi chinh phục cương thổ, sơn hà, chí hướng này cũng là nguồn cảm hứng của rất nhiều tác giả.
Trong ca dao xưa có câu: “Làm trai cho đáng thân trai/ Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”; Phan Bội Châu cũng quan niệm rằng: “Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời”; hay Nguyễn Công Trứ cũng cho rằng: “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây, cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” từ đó ta có thể thấy việc Từ Hải ra đi không phải đơn giản vì “động lòng” mà còn là để trả món nợ làm trai, hơn hết chàng ra đi để gây dựng một cuộc sống mới cho Thúy Kiều và cũng là để cho chính bản thân chàng.
Từ Hải không khoanh tay đợi chờ sự ưu ái của số phận hay ngồi phấp phỏng âu lo về những điều bất hạnh khó dự liệu sẽ ập tới, chàng là mẫu người hành động nên biết chủ động giành lấy cái mà mình và người mình yêu đáng được hưởng. Từ Hải dùng hành động “trông vời” đối với không gian bao la rộng lớn “trời bể mênh mang” thể hiện tư thế hiên ngang, sánh ngang tầm vũ trụ. Chàng đã lên đường với một tư thế dứt khoát chỉ cùng “thanh gươm yên ngựa” để mà “lên đường thẳng rong”, không dây dưa bịn rịn như thói thường.
Tuy nhiên ta có thể thấy hình ảnh Từ Hải ra đi gây dựng sự nghiệp chỉ với “thanh gươm yên ngựa” vừa tràn ngập hoài bão, vừa mang sức đẹp lớn lao như thế nhưng sâu trong đó ta cũng cảm thấy một chút cô đơn của người anh hùng khi đối diện với bao khó khăn thử thách một cách đơn độc. Bốn câu thơ đầu đã khắc họa nên tư thế ung dung và tầm vóc hiên ngang, vĩ đại ngang tầm vũ trụ của một người anh hùng. Ngay cả trong giờ phút chia li, Từ Hải cũng không hề bịn rịn, ủy mị mà “lên đường thẳng rong”.
Hai câu tiếp theo là tâm trạng và lời giãi bày của Kiều dành cho Từ Hải trong phút chia ly:
Trong quan niệm Nho gia người phụ nữ phải chịu sự ràng buộc của các lễ giáo phong kiến với “tam tòng tứ đức”, tam tòng trước hết là tại gia phụ thuộc vào cha, sau khi gả đi thì phụ thuộc vào người chồng, chồng chết thì phải dựa vào con. Tuy nhiên ở đây ta có thể thấy sâu thẳm trong ý nguyện muốn được ra đi cùng chồng của Kiều còn rất nhiều nguyên do chứ không hẳn do lễ giáo.
Sau những năm tháng khổ nhục, phiêu bạt đoạn trường, Từ Hải là người cứu vớt, là chỗ dựa vững chắc nhất của nàng nên khi Từ muốn ra đi Kiều đã lập tức xin theo, cho dù chưa biết đi đâu. Lời nói của Kiều thể hiện tình yêu tha thiết, sự thấu hiểu và khâm phục mà nàng dành cho Từ Hải, nàng tự nguyện gắng bó cuộc đời mình với chàng.
Lời từ chối của Từ Hải cho thấy lý tưởng lớn lao của chàng cùng với tình yêu sâu sắc của chàng đối với Thúy Kiều. Thoạt tiên, chàng trách nàng “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”, tuy trách nhưng thực chất là để đề cao. Chính vì coi Kiều là người “tâm phúc” nên Từ yêu cầu và động viên nàng xây dựng phẩm chất để trở thành nàng Ngu Cơ của mình với những phẩm chất cao cả hơn chứ không phải những thói thường tình.
Ai bảo khí phách anh hùng chỉ bộc lộ trong “vòng tên đạn bời bời”? Nguyễn Du đã thành công khi chứng minh chí khí của Từ Hải khi vượt qua được ải mĩ nhân, hay những cám dỗ của tình yêu đôi lứa. Đối với Nguyễn Du tầm vóc của Từ Hải phải là cái tầm vóc của vũ trụ mới thật xứng đáng. Chàng là cánh chim tự do với sức mạnh và ý chí phi thường chuyên chở giấc mơ “tháo củi sổ lồng” của Nguyễn Du cũng như tất cả những người có hùng tâm tráng chí trong thời đại mình để bay vượt lên tất thảy những “sóng gió bất kì” mà cuộc đời đưa đến.
Qua 8 câu thơ đầu đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã khắc họa nên hình ảnh một bậc đại trượng phu vừa có chí khí phi thường, vừa có lí tưởng cao đẹp. Hình tượng Từ Hải với tầm vóc, lý tưởng lớn lao trở thành một trong những hình tượng nhân vật đẹp nhất trong “Truyện Kiều” nói riêng và trong văn thơ trung đại nói chung.
Mời bạn tham khảo 🌠 Kết Bài Chí Khí Anh Hùng 🌠 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Trong bài viết Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: “Từ Hải” đăng trên báo Thanh nghị, số 36, tháng 5 -1943, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Thực suốt cả quyển Đoạn trường tân thanh tức là Truyện Kiều không có chỗ nào ngòi bút Nguyễn Du hân hoan bằng những khi Từ Hải nói hay nói đến Từ Hải (…). Biết đâu Từ Hải chẳng là cái mộng tưởng lớn nhất trong đời Nguyễn Du”.
Nhận xét và phỏng đoán (có màu sắc khẳng định) nói trên của nhà phê bình thật đáng được chia sẻ, một khi ta đã đọc kĩ Truyện Kiều và hơn thế nữa đọc đến những tác phẩm văn học Trung Hoa xưa có nói đến nhân vật Từ Hải, nhất là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – cuốn sách mà Nguyễn Du đã dựa vào đó để dựng nên kiệt tác của mình.
Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một anh hùng toàn vẹn.Từ “anh hùng” và cùng với nó là những từ có cùng trường nghĩa luôn hiện khi nhà thơ nói đến chàng dù thông qua lời trần thuật hay lời nhân vật khác. Thậm chí, nhà thơ đã để cho nhân vật nhiều lần tự xưng mình là anh hùng – một con người tự tin đến thế là cùng!
Dĩ nhiên, muốn chứng minh nhân vật của mình là anh hùng, riêng việc dùng từ như trên chưa đủ. Nguyễn Du rất hiểu điều đó, vì vậy đã dụng tâm tạo dựng một không gian riêng – không gian mở, không gian bao la – để Từ Hải xuất hiện.
Bên cạnh đó, nhà thơ cũng không quên vận dụng cách thức miêu tả ngoại hình và hành động có tính ước lệ, khoa trương để tô đậm cốt cách hơn người, hơn đời của Từ Hải. Nói tóm lại để thấy được chí khí anh hùng ở con người này, ta có thể giết bất cứ trang nào trong Truyện Kiều có nhắc đến hai chữ Từ Hải, hay nhắc đến hành tích, sự nghiệp và cả kết cục số phận của chàng. Tuy nhiên, dù điều trên là có thật, nhiều người vẫn muốn chú ý trước hết đến tình huống Từ Hải tạm biệt Thuý Kiều để lên đường theo đuổi nghiệp lớn.
Ai bảo khí phách anh hùng của một kẻ nam nhi chỉ được thể hiện rõ nét khi anh ta đứng giữa vòng tên đạn bời bời? Nguyễn Du không hoàn toàn nghĩ thế. Ông dụng tâm miêu tả sâu cách ứng xử của Từ Hải với mỹ nhân, với hạnh phúc được sống cùng mỹ nhân, qua đó mà làm bật nổi cốt cách hơn đời có ở chàng. Nghĩ cho cùng, đây là một lựa chọn nghệ thuật tuyệt đối phù hợp. Bao giờ mĩ nhân chả là một cửa ải khó vượt đối với những kẻ nam phi, những bậc anh hùng?.Trước đoạn kể buổi Từ Hải lên đường,
Nguyễn Du chỉ nói hết sức vắn tắt về cuộc sống hạnh phúc của cặp “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Ông không rề rà miêu tả, dù rề rà một chút trong trường hợp này cũng có thể chấp nhận được, bởi tâm lý độc giả vẫn muốn dành thêm ưu ái cho Thuý Kiều – một con người đã nếm trải vô số bất hạnh trong cuộc đời. Không, nhà thơ quá hiểu Từ Hải. Một khi nghiệp lớn chưa thành, chàng không đành tâm vui hưởng hạnh phúc, với mỹ nhân, dù người đó là hồng nhan tri kỷ. Và chàng đã ra đi giữa lúc khó ra đi nhất, giữa lúc ái tình đang toả hương ngây ngất.
Từ thoắt cùng với chi tiết “lên đường thẳng rong ” đã vẽ lên rất linh hoạt tính cách của một con người hành động, làm việc gì cũng nhanh chóng, dứt khoát. Ai cũng biết Từ Hải rất yêu, rất trọng Kiều, nhưng cái chí tung hoành giữa bốn phương vẫn lớn hơn giúp chàng vượt qua trạng thái bịn rịn, nhùng nhằng một cách nhẹ nhàng. Từ Hải là con người biết sống cho tình yêu nhưng cũng là con người của mênh mang trời bể. Đây chính là chỗ phân biệt chàng với những nhân vật đàn ông khác tùng yêu nàng Kiều như Kim Trọng và Thúc Sinh.
Vả chăng, chàng ra đi cũng là để gây dựng một cuộc sống mới, cho chàng và cả chính nàng Kiều nữa. Chàng không đứng khoanh tay chờ đợi sự ưu ái của số phận, của cuộc đời hay ngồi phấp phỏng âu lo vì những điều bất hạnh khó dữ liệu sẽ tới. Chàng biết chủ động giành lấy cái mà chàng thấy mình cùng người tri kỉ đáng được hưởng.
Ở những câu thơ tiếp theo
Quả có một cái gì đó như là sự vô lí trong trình tự kể của tác giả: tại sao lại nói chuyện Từ Hải “lên đường thẳng rong” trước chuyện hai người đối thoại với nhau? Đây là một cái “lỗi” trong nghệ thuật trần thuật hay là sự cố ý? Theo Tản Đà, Nguyễn Du đã “vội lời”. Kể ra nhận xét như thế cũng chẳng sai. Nhưng nếu hiểu rằng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, trình tự kể không nhất thiết phải ứng khớp với trình tự của câu chuyện được kể, nó là một cái gì mang tính ước lệ, thì ta lại thấy Nguyễn Du có cái lý của mình.
Ông không để cái tiểu tiết làm hại tinh thần chung của một đoạn thơ có mục tiêu làm rõ sự dứt khoát trong hành động của người anh hùng Từ Hải. Vả chăng có thể biện minh rằng: Từ Hải tuy chưa thực sự cất bước ra đi nhưng chí của chàng thì đã ruổi rong cùng thanh gươm, yên ngựa. Nói thẳng một lèo như thế, câu thơ dễ gây ấn tượng về một con người có hành tung như ngọn gió vừa mới thấy đây mà phút chốc thân đã ở ngoài muôn dặm.
Một số người nghĩ rằng đoạn đối thoại này là do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong Kim Vân Kiều truyện. Sự thực không hoàn toàn như vậy. Trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân vẫn có, nhưng nó được đặt trong bối cảnh Từ Hải chuộc Kiều ra, không đưa Kiều về quê nhà mà lại dựng một toà nhà để cùng ăn ở với Thuý Kiều. Khi Kiều thắc mắc chàng mới nói rõ sự tình: “Chứ như nay, ta chỉ trơ trọi một mình, khi đưa nàng nào biết về đâu?”.
Nguyễn Du có cách xử lý nghệ thuật khác, tuân theo cấu trúc tự sự riêng của chính Truyện Kiều và cũng hợp với tính cách các nhân vật của ông hơn. Ông không để cho Kiều thắc mắc về những điều vụn vặt, cũng không để cho Từ Hải nói những lời chưa phải lúc. Ông thích quan sát nhân vật trong những cuộc chia tay và muốn những cuộc chia tay đó phải nói được một điều gì lớn hơn chính bản thân sự việc được kể.
Hãy xem Từ Hải đã “đả thông tư tưởng” cho nàng Kiều như thế nào khi nàng một lòng xin đi. Thoạt tiên, chàng trách nàng “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Trách nhưng thực chất là đề cao, bởi trong suy nghĩ của chàng, Kiều là người “tâm phúc tương trí” và chàng muốn nàng luôn như vậy. Đã nói đến chuyện tương tri, bao nhiêu tâm sự, hoài bão phút chốc được biểu lộ.
Qua bài văn phân tích 8 câu đầu đoạn trích Chí khí anh hùng phần nào đã giúp các em cảm nhận được ước mơ của Nguyễn Du về một vị anh hùng, một vẻ đẹp mang khí chất vĩ đại cùng một tình yêu lứa đôi thật đẹp.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Nhân Vật Từ Hải 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:
Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà 8 câu đầu đoạn trích Chí khí anh hùng thể hiện rõ điều này.
Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng.
Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng.
Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.
Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:
Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình.
Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa.
Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa sức vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng.
Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:
Hay như:
Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất.
Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.
Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:
Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:
Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:
Qua 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa được tình yêu giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên” dành cho nhau, nhưng cũng không hề làm mờ đi vẻ đẹp cùng chí khí vĩ đại của người anh hùng một lòng muốn thành danh.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Về Nhân Vật Từ Hải 🌳 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Truyện Kiều xuất sắc không chỉ vì ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn vì ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Nguyễn Du phản ánh một hiện thực xã hội phong kiến đương thời – cái xã hội hủ nát đã vùi dập chính ông – hay vùi dập số phận nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác.
Điều ấy khiến Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Và khi đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, Nguyễn Du đã làm sáng cái ý chí và hoài bão lớn lao của những bậc anh hùng thời bấy giờ. Hình ảnh nhân vật Từ Hải cùng tình yêu cũng như ý chí lớn lao đã được thể hiện rõ nét ngay chỉ ở 8 câu thơ đầu.
Sau nửa năm chung sống, Kiều và Từ Hải có một mái ấm gia đình, đương lúc tình cảm giữa hai người nồng đượm nhất, Từ Hải lại ‘thoắt động lòng bốn phương’. Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu ‘Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể’.
Nam nhi chi chí, đầu đội trời, chân đạp đất, sống là phải làm rạng danh dòng họ, rạng danh gia đình, ‘Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh’. Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nên nét riêng của chàng.
Và Từ Hải đã luôn ở trong vị thế sẵn sàng – chàng luôn cầm chắc thanh gươm, yên ngựa luôn được đặt sắn – chàng biết chẳng chóng thì chầy chàng cũng sẽ ra đi. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, ‘nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ’.
Không gian xung quanh – rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mênh mang đến cùng trời cuối bể – như khắc họa thêm vào bóng lưng quyết liệt, dứt khoát của chàng. Chàng như hòa vào với trời đất, chàng như trở nên khổng lồ – vì ý chí và hoài bão – vươn đến tận vũ trụ xa xôi. Từ Hải tin rằng chàng sẽ thực hiện được hoài bão của mình. Còn Kiều, nàng chẳng có suy nghĩ nào khác là muốn theo chồng của mình, cùng chàng chia sẻ những nguy hiểm, khó khăn.
Từ Hải trách Kiều ‘sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình’ nhưng sâu thẳm trong lòng thì ai cũng hiểu vì chàng lo cho Kiều phải chịu vất vả. Nguyễn Du đã xuất sắc miêu tả một Từ Hải – một con người bình thường, với những hoài bão và ý chí to lớn, với những hành động phi thường, và rồi lại trở lại như một người chồng quen thuộc – một người chồng luôn lo lắng, quan tâm đến vợ mình.
Chỉ qua 8 câu thơ mở đầu đoạn trích, tác giả đã giúp cho người đọc thấy được toàn cảnh chia ly đầy nỗi buồn giữa Kiều và Từ. Dẫu cho tình cảm của người vợ có nồng nhiệt bao nhiêu cũng không thể níu chân được người anh hùng mang trong mình dòng máu đầy khí chất muốn xả thân. Vậy là lời từ biệt cũng diễn ra, cuộc chia ly cũng xảy ra, tất cả cũng không thể nào vượt ra được khỏi cái nhìn nhận của thời kỳ phong kiến, nơi mà người phụ nữ luôn phải hy sinh hạnh phúc của mình.
SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích 4 Câu Đầu Bài Chí Khí Anh Hùng 💧 10 Bài Hay
Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”, là tri kỉ “tâm phúc tương tri” đã cứu vớt và mang đến cho Kiều những tháng ngày êm đềm, hạnh phúc sau bao biến cố dữ dội. Từ Hải xuất hiện trong truyện Kiều không chỉ với vai trò là tri kỉ của nàng Kiều mà còn là nhân vật thể hiện được mong ước của tác giả Nguyễn Du về một người anh hùng lí tưởng trong thời loạn.
8 câu thơ đầu trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa rõ nét, sống động nhất về Từ Hải, một con người anh hùng xuất chúng có khát vọng, hoài bão cao đẹp, một đấng trượng phu có bản lĩnh, quyết tâm và sự tự tin. Rơi vào tay Bạc Bà, lần thứ hai, Kiều lại rơi vào chốn lầu xanh. Nàng sống trong tâm trạng chán chường, đầy tuyệt vọng. Thế rồi, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh cứu vớt cuộc đời của nàng. Hai người trở thành tri âm tri kỉ và Từ Hải đã đưa Kiều khỏi chốn thanh lâu nhơ nhớp ấy và trở thành vợ chồng.
Nhưng tình yêu với Thuý Kiều cũng không thể kìm chân người anh hùng lâu hơn thế. Nửa năm sau, Từ Hải đã từ biệt Kiều để ra đi thực hiện chí lớn của mình:
Sau nửa năm hạnh phúc, yên ấm bên Thúy Kiều, Từ Hải đã quyết định lên đường thực hiện lí tưởng lớn của cuộc đời mình. Đấng “trượng phu” chí lớn, tài năng như chàng sao có thể ngồi yên một chỗ mà hưởng cuộc sống an nhàn được nên chàng đã “thoắt động lòng bốn phương”. Một từ “thoắt” thôi cũng đủ bộc lộ thái độ dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết và bất ngờ khi chàng quyết định ra đi lập nghiệp.
Cùng với đó, cụm từ “động lòng bốn phương” càng cho ta thấy được lý tưởng cao đẹp của chàng. Đó là khát vọng được vùng vẫy trong thiên hạ, được thỏa chí lớn bốn phương, ý chí ấy mạnh mẽ không gì cản nổi.
Ở Từ Hải hội tụ đủ những phẩm chất, những yếu tố cao đẹp của một người anh hùng thời loạn, không chỉ có lí tưởng cao đẹp mà người anh hùng ấy còn có bản lĩnh, quyết tâm và những hành động mạnh mẽ, dứt khoát. “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” một mình với một gươm, một ngựa, chàng lên đường “thẳng rong”, nhanh gọn, dứt khoát, không một chút vấn vương. Tư thế đó oai phong, lẫm liệt, hào hùng, sánh ngang với vũ trụ và trời đất.
Bốn câu thơ là cuộc chia tay của Từ Hải và Thuý Kiều. Nhưng ở trong đó, người ta còn thấy được chí khí của người anh hùng Từ Hải với tư thế ra đi hiên ngang, lòng quyết tâm mãnh liệt, ra đi không chút vấn vương. Còn với Kiều, nàng mới chỉ có “nửa năm” sống yên vui và hạnh phúc. Nàng không muốn mất đi cuộc sống an yên như vậy và cùng là bởi vì, Kiều muốn cùng chồng gánh vác mọi việc. Vậy nên khi Từ Hải ra đi, nàng đã xin theo cùng chàng.
Nàng đã viện tới lý do “xuất giá tòng phu”, chàng đi đâu thì nàng cũng xin theo cùng. Lý do Kiều đưa ra rất hợp tình hợp lý, rất thoả đáng. Thế nhưng, Từ Hải đã khéo léo từ chối nàng, chàng đánh thức sự lý trí trong nàng:
Từ Hải cho rằng hai người đã trở thành “tương tri”, tức là có thể hiểu rõ đối phương, chắc hẳn, Kiều cũng phải hiểu được khát vọng của mình. Vậy nên, chàng khuyên Kiều hãy “thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đừng để tình cảm lấn át lý trí, cản trở con đường thực hiện lý tưởng của chàng. Đồng thời, chàng cũng khuyên nàng hãy nghĩ thông suốt để xứng đáng trở thành tri kỉ của người anh hùng.
Bằng bút pháp ước lệ cổ điển, Nguyễn Du đã mang tới hình tượng người anh hùng chí lớn, mạnh mẽ, dứt khoát, đầy lý tưởng. Từ Hải là người anh hùng toàn vẹn, thấu tình đạt lý, đúng như ước mơ trong trí tưởng tượng của Nguyễn Du về người anh hùng dũng cảm dám đứng lên chống lại cường quyền, mang lại bình yên, công lý, công bằng cho xã hội.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích 12 Câu Giữa Chí Khí Anh Hùng 🔥 10 Mẫu Hay
Vương Thúy Kiều là một người con gái “tài sắc vẹn toàn”, một bậc giai nhân vẹn toàn khó có thể tìm thấy trong dân gian. Tuy nhiên, càng tài sắc bao nhiêu thì cuộc đời của nàng càng trắc trở, bất hạnh bấy nhiêu. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha, cứu gia đình, cuộc đời của Thúy Kiều đã bước sang một trang khác.
Cuộc đời nàng những tưởng mãi chìm trong đau khổ, bị thương nhưng Từ Hải xuất hiện, người đàn ông “đầu đội trời, chân đạp đất” ấy đã cứu vớt cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều, cho Kiều một danh phận, một cuộc sống như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác. Trong trích đoạn “Chí khí anh hùng” nhà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người anh hùng Từ Hải.
Đến với Thúy Kiều nhưng Từ Hải chưa phút giây nào lãng quên lí tưởng, sự nghiệp lớn của mình. Vì vậy, sống chung với Thúy Kiều sáu tháng, dù vô cùng hạnh phúc, vui vẻ nhưng Từ Hải cũng đã nói lời từ biệt nàng Kiều để lên đường thực hiện nghiệp lớn:
“Nửa năm” là khoảng thời gian Từ Hải hạnh phúc bên nàng Kiều. “Hương lửa đương nồng” chỉ khoảng thời gian êm đềm, hạnh phúc ấy, ngọn lửa của tình yêu vẫn nóng bỏng, rạo rực trong trái tim. Nhưng, người trượng phu ấy đã “động lòng bốn phương”, khát khao, ước mơ thực hiện lí tưởng lại trỗi dậy mạnh mẽ trong chính người trượng phu ấy, “trời bể mênh mang” tức sự nghiệp mà chàng đang ấp ủ vẫn là một cái đích lớn cần thực hiện, đang “vẫy chào” với chàng.
“Thanh gươm”, “yên ngựa” là những hành trang theo Từ Hải lên đường, sát cánh bên chàng khi chiến đấu thực hiện giấc mộng lớn. Vì vậy, câu thơ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” thể hiện được phong thái của một bậc anh hùng “đầu đội trời chân đạp đất”, khí chất khẳng khái cần phải có của một người đứng đầu.
Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều đã bày tỏ nguyện vọng muốn được đi theo, vừa là tiện bề chăm sóc, làm tròn trách nhiệm của một người thê tử với phu quân, vừa là không muốn chia li, cắt biệt với Từ Hải:
Thúy Kiều nói với Từ Hải bằng giọng điệu hết sức tha thiết, thể hiện mong muốn chân thành với Từ Hải, đó là theo Từ Hải đến nơi chân trời góc bể “Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”, với nàng Kiều, phận làm vợ phải đề cao chữ “tòng”, tức với một người con gái đã xuất giá là phải theo chồng “xuất giá tòng phu”.
Có lẽ, Từ Hải là người chồng đúng nghĩa nhất của Thúy Kiều, cũng là người thật lòng yêu thương, bảo vệ nàng như một người trượng phu thực thụ. Tuy nhiên, trước mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã không thể đồng ý, chàng cho rằng Thúy Kiều chưa thể thoát ra khỏi cái yếu đuối, ủy mị của “nữ nhi thường tình”, rằng “tâm phúc tòng tri”, vì vậy không nhất thiết phải theo chàng ra tận nơi chiến trường đầy hiểm nguy.
Tấm lòng của Thúy Kiều thì Từ Hải nhận, nhưng đành phải nói lời từ chối với mong muốn đi theo của nàng. Có thể nói tình yêu của Từ Hải dành cho Thúy Kiều là đúng nghĩa, nhưng chàng cũng biết nơi chiến trường hiểm nguy, gian khổ như thế nào, đối với thân gái như Kiều khó có thể chịu được. Vì vậy, càng yêu Kiều bao nhiêu thì Từ Hải càng quyết tâm bấy nhiêu, quyết tâm ra đi, quyết tâm dành chiến thắng để mang lại cho Kiều cuộc sống tốt đẹp nhất.
Chỉ qua 8 câu thơ đầu, phần nào tác giả đã phác họa được hình ảnh người phụ nữ với những thiệt thòi khi sinh ra ở thời phong kiến, chịu đựng, hy sinh, cũng phần nào làm sáng tỏ lên ý chí kiên cường, quyết một lòng ra đi với mong muốn được rạng danh ngày trở về của bậc anh hùng.
Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Thề Nguyền 🌳 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Nhân Vật Phùng Trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa 2 Dàn Ý &Amp; 14 Bài Văn Mẫu Lớp 12
Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa mang đến 14 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết và sơ đồ tư duy. Qua đó giúp chúng ta cảm nhận được nhân vật Phùng là người nghệ sĩ có tấm lòng bao dung, ghét những cái xấu.
Phân tích nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Dàn ý phân tích nhân vật Phùng
Sơ đồ tư duy nhân vật Phùng
Phân tích nhân vật Phùng ngắn gọn nhất
Phân tích nhân vật Phùng hay nhất
Phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa
I. Mở bài
Nguyễn Minh Châu là nhà văn không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn, của người nghệ sĩ.
Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm kết tinh những đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
Tác phẩm cũng đưa ra những quan niệm của tác giả về trách nhiệm, vai trò của một người nghệ sĩ, điều này thể hiện qua hình tượng nhân vật nhiếp ảnh Phùng.
II. Thân bài
1. Một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, say mê với cái đẹp
– Phùng là người say mê nghệ thuật, có trách nhiệm với công việc: sẵn sàng bỏ cả vài tuần để đi săn lùng một bức ảnh đẹp, loay hoay suốt mấy ngày vẫn chưa tìm được bức ảnh ưng ý.
– Tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp: trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,
Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp toàn bích.
Bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”
– Nhận xét: Không chỉ nhạy bén trước cái đẹp, Phùng còn có cả những suy tưởng sâu sắc về quan hệ giữa cái đẹp với cái thiện: cái đẹp thực sự phải có khả năng thanh lọc tâm hồn con người.
2. Một tấm lòng luôn trăn trở về thân phận con người
Trước cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài, lúc đầu Phùng kinh ngạc tột độ: “chỉ biết há mồm ra mà nhìn”, nhưng sau đó đã vứt máy ảnh xuống chạy nhào tới. Khi chứng kiến thêm một lần nữa, Phùng đã can ngăn, rồi bị thương phải vào viện điều trị.
Sau câu nói của người đàn bà ở tòa án (xin không bỏ chồng), Phùng cảm thấy bức xúc, “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt” nên đã vén màn bước ra ngoài như muốn đòi lại công lí cho chị ta.
Khi nghe câu chuyện của người đàn bà, trăn trở, âm day dứt trong lòng cho số phận những gia đình giống như gia đình Phác, anh xách máy ảnh đi lang thang.
Nhận xét: Mặc dù chưa quen nghịch lí trong cuộc đời nhưng trong anh vẫn là phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ căm ghét những bất công, sẵn sàng hành động vì lẽ công bằng.
3. Là nhân vật tự ý thức
Ban đầu, Phùng là người nghệ sĩ có thái độ dễ bằng lòng, nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi lính ngụy không?”), không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.
Phùng cảm thông cho số phận của người đàn bà hàng chài, cuộc đời và câu chuyện của chị ở tòa án đã giúp Phùng vỡ lẽ ra nhiều điều, anh biết chấp nhận những điều nghịch lí ở đời.
Thông qua những cảm nhận của Phùng, nhà văn gửi đến người đọc những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật: cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất sau vẻ đẹp của hiện tượng
III. Kết bài
Khái quát giá trị nghệ thuật: khắc họa nhân vật, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, …
Trong tác phẩm, nhà văn đã tỏ ra cảm thông sâu sắc trước cuộc đời khốn khổ của người đàn bà hàng chài, đồng thời ngợi ca và phát hiện những phẩm chất mạnh mẽ của chị, tố cáo hậu quả chiến tranh để lại.
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của ông gửi gắm nhiều bài học giá trị. Nổi bất trong tác phẩm là nhân vật Phùng.
Trước hết, Phùng được xây dựng với tư cách là một người nghệ sĩ chân chính, có trách nhiệm với công việc. Theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng đã quyết định đi về một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số để thực hiện một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. Nhân chuyến đi, anh cũng muốn thăm người đồng đội cũ của mình là Đẩu – nay đã là chánh án của một tòa án huyện. Phùng đã phục kích mấy buổi sáng mà vẫn chưa chụp được bức ảnh nào. Sau nhiều ngày, anh đã chớp được ra một cảnh “trời cho đắt giá”: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích…”. Trước vẻ đẹp toàn bích đó, Phùng cảm thấy bối rối “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Trong khoảnh khắc đó, Phùng tưởng chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn”. Sau khi thu vào máy ảnh khung cảnh tuyệt diệu đó, Phùng thầm nghĩ có thể trở về ngay lập tức.
Không chỉ là một nghệ sĩ, Phùng cũng là một con người với trái tim giàu tình yêu thương. Anh phát hiện ra đằng sau khung cảnh “trời cho đắt giá” là một cảnh tượng đau lòng. Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, một người đàn bà thô kệch xấu xí bước ra. Khuôn mặt của chị ta toát lên vẻ mệt mỏi. Theo sau là một người đàn ông với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ. Người đàn ông đã “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Trước cảnh tượng đó, Phùng cảm thấy “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu”, “cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, anh đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới để can ngăn, đến ngay cả anh cũng bị người đàn ông vũ phu đánh. Với nhạy cảm của một người nghệ sĩ, hiện thực về gia đình người đàn bà hàng chài đằng sau khung cảnh tuyệt đẹp đã giúp Phùng nhận ra rằng bài học to lớn. Đằng sau cái đẹp của ngoại cảnh là cái xấu xa của cuộc sống bị khuất lấp. Và người nghệ sĩ cần phải có cái nhìn đa diện trước cuộc sống.
Đặc biệt, k hi ở tòa án huyện, Phùng đã được lắng nghe câu chuyện về người đàn bà hàng chài. Khi lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đẩu và người đàn bà, Phùng “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt” nên đã bước ra ngoài để nói chuyện với người phụ đàn bà khốn khổ này. Khi nghe chị ta cầu xin Đẩu đừng bắt mình bỏ chồng, Phùng cảm thấy bất bình, khó hiểu. Chỉ đến khi nghe xong toàn bộ câu chuyện về người đàn bà hàng chài, anh mới thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”. Phùng hiểu được rằng không nhìn hiện tượng mà đánh giá toàn bộ bản chất của vấn đề.
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn đặc sắc, giàu giá trị.
Văn học hiện thực – lãng mạn 1930 – 1945 khá nổi bật với tuyến nhân vật tư tưởng Điền trong “Giăng sáng” hay Hộ trong “Đời thừa” của văn Nam Cao. Các nhân vật luôn có sự đấu tranh nội tâm để nhận thức và triết lí sống. Tôi khá bất ngờ khi một lần nữa bắt gặp tuyến nhân vật này trong văn học hiện đại thời kì Đổi mới. Đó là Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật Phùng mang nhiều ý nghĩa về quan niệm nghệ thuật và triết lí nhân sinh của nhà văn.
Phùng là người nghệ sĩ tài năng, có lòng say mê với nghề và trách nhiệm với công việc của mình. Với nhiệm vụ của Trường phòng giao phó, Phùng quyết tâm chụp được những bức ảnh chất lượng nhất để hoàn thiện bộ lịch năm ấy. Sau nhiều ngày “phục kích” trên bãi biển cách Hà Nội 600km, Phùng phát hiện ra bức tranh thiên nhiên tựa “cảnh đắt trời cho”, “tuyệt mĩ và toàn bích”. Chỉ một người nghệ sĩ tài năng và nhạy cảm trước cảnh đẹp mới có thể nhận ra bức tranh như thế, một “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào”, “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng vào mặt bờ”… Phùng là người nghệ sĩ chân chính khi được khám phá và sáng tạo, khi được cảm nhận cái đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và cuộc đời. Phùng dường như được Nguyễn Minh Châu gắn cho sứ mệnh của người nghệ sĩ: phát hiện và mang lại cái đẹp đến với cuộc đời.
Phùng là người nghệ sĩ có tấm lòng bao dung, không chấp nhận sự bất công nhưng lại có cái nhìn quá đơn giản về cuộc sống. Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bước ra từ con thuyền ngư phủ và bị chồng đánh, Phùng liền vứt chiếc máy ảnh xuống đất để nhào tới bênh vực người đàn bà. Phùng không chịu thờ ơ trước cái bất công, trước nỗi đau của người khác. Phùng còn đề nghị chị ly hôn để tự giải thoát hoàn cảnh bản thân. Khi nghe lời giãi bày của người đàn bà ở tòa án huyện đặc biệt là lời van xin khẩn thiết, Phùng không thể hiểu được, Phùng không lí giải được.
Chính điều này đã cho thấy Phùng là người có cái nhìn cuộc sống còn đơn giản, không hiểu được cái lí của con người phải sống cuộc đời trong vòng vây cái đói nghèo, không hiểu được tình thương đan cài với sự thù hận, giữa niềm vui với nỗi buồn. Phùng dường như vụn vỡ lẽ: lòng tốt trong cuộc đời là thứ đáng quý nhưng chưa đủ, phải gắn nó với từng hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn thường xây dựng kiểu nhân vật tư tưởng tự nhận thức, nhân vật Phùng cũng thuộc tuyến nhân vật này. Phùng là người nghệ sĩ luôn có ý thức hoàn thiện nhân cách. “Xách máy đi lang thang đến tận khuya”, chi tiết này gián tiếp chứng tỏ nhận thức của Phùng đã thay đổi và anh ta để cho tâm hồn mình hòa vào một cảnh ít thi vị “trời bắt đầu nổi sóng”, “những mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm”, “chiếc thuyền đang chống chọi với sóng giữa phá”… Người nghệ sĩ đã không còn chỉ tha thiết với thiên nhiên mỹ lệ mà còn biết hướng ống kính đến cuộc sống lam lũ, mưu sinh của con người, trăn trở với nỗi nhọc nhằn của cuộc sống cơ cực. Truyện kết thúc trong nỗi trăn trở của Phùng về hình ảnh người đàn bà cứ hiện ra sau mỗi lần anh nhìn bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa. “Mãi mãi về sau”, cụm từ này nhấn mạnh người nghệ sĩ sẽ phải mãi đau đáu về một kiếp nhân sinh.
Tóm lại, thông qua nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu điển hình cho kiểu nhân vật tự nhận thức và mang thông điệp nhân đạo mới mẻ của nhà văn. Sau cùng, Phùng đã thay nhà văn tuyên ngôn: Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, xuất phát và quay lại để phục vụ cuộc sống.
Có một nhà văn đã từng nói: “Cái đẹp chính là liều thuốc giúp trái tim của người nghệ sĩ thăng hoa hơn. Cái đẹp thanh lọc tâm hồn con người, cái đẹp khiến cho người ta trở nên thánh thiện và cao thượng hơn.” Tôi vẫn còn nhớ nhân vật Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) đã từng xúc động, bối rối như thế nào khi khám phá ra một vẻ đẹp toàn bích lúc ngắm nhìn bức tranh chiếc thuyền mờ ảo trong sương khói. Nhân vật Phùng cũng từ bức tranh toàn bích này khám phá ra muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống đời thường. Và nhân vật này, cũng đã giúp cho nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện được tư tưởng, triết lý nhân văn sâu sắc về vẻ đẹp con người, vẻ đẹp nghệ thuật, vẻ đẹp cuộc đời.
Nguyễn Minh Châu – cây bút tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những tác phẩm thành công của ông là “Chiếc thuyền ngoài xa”. Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến năm 1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này được coi là nhân vật thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.
Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của một người lính và của một người nghệ sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Đồng thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm với cuộc đời. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.
Trước hết, anh là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua tâm hồn tinh tế với những rung cảm rất mãnh liệt, luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp hoàn mỹ. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy mà sau mấy buổi sáng “phục kích”, anh đã chụp được “cảnh đắt trời cho”. Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như “bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc” bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào”. Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân – thiện – mỹ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức “bản thân cái đẹp là đạo đức”. Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mỹ.
Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm nhận sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát hiện ra sự đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ nhất đầy vẻ thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ góc độ của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức ảnh ấy là sáng tạo, là công sức của một đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mê nghệ thuật. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền tiến vào bờ. Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã, sự bạo hành gia đình. Người chồng đánh đập vợ một cách dã man, vừa đánh vừa chửi “mày chết đi cho ông nhờ”, “chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ thì cam chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ, xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Nó hoàn toàn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Mặc dù khám phá ra những đối lập song Phòng không quay lưng lại với sự thật cho dù nó phũ phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực tiếp nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững sờ, vỡ lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu. Đó cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống của người nghệ sĩ.
Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp. Anh là chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, luôn tôn trọng lẽ phải và sự công bằng xã hội. Hai lần chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, Phùng xông vào can thiệp, chân thành muốn giúp đỡ người đàn bà đáng thương, dũng cảm bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng hồn mình để lắng nghe “những vang động của đời”. Với anh – một người đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kỳ khó khăn của chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa, luôn đứng về lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều xấu, điều ác.
Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được “cảnh đắt trời cho”, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.
Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng đã có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu chuyện của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và để nhận ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc. Nhân vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội tụ trong mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ đẹp của một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật này trong một tình huống đầy nghịch lý với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu chuyện được kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi, chân thực và sâu sắc hơn.
Những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng là bước ngoặt quan trọng giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu truyền tải thông điệp của mình. Thêm vào đó, đây cũng chính là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy mới mẻ của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.”
Nghệ thuật có phải lúc nào cũng chỉ bao hàm những cái đẹp hay không? Không, nghệ thuật sẽ không có giá trị nếu nó chỉ tồn tại bấy nhiêu đó, mà nghệ thuật là vì con người, vì cuộc đời mà trở nên đẹp hơn. Thế nên, nghệ thuật sẽ mất đi cái chân thiện mỹ của nó nếu nghệ thuật không bao gồm cả những cái xấu, cái tồi tàn để làm bật dậy những bản tính tốt đẹp của những người yêu nghệ thuật. Cũng giống như hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa, một truyện ngắn mang phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu. Ông được mệnh danh là cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Chính cái lối viết độc đáo của nhà văn đã khắc họa hình ảnh, những giá trị sâu sắc thông qua nhân vật Phùng.
Trước hết, Phùng là một người lính trở về với chiến trường xưa, nơi anh từng chiến đấu trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mỹ với tư cách là một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh được giao nhiệm vụ thực hiện bộ lịch nghệ thuật mà trong đó anh phải bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Để thâu tóm và chiêm ngưỡng được cái vẻ đẹp “trời cho” ấy, anh đã phải chờ đợi kiên nhẫn, “phục kích” hết mấy buổi sáng. Thế là cuối cùng cái sự chờ đợi kiên nhẫn của anh cũng được đền đáp. “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cách “đắt” trời cho như vậy”. Cảnh trời đẹp đẽ đến nỗi khiến Phùng ngỡ rằng trước mắt anh là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Mà trong khung cảnh đầy những sương mù trắng vây quanh, người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc trên mui khum khum của một chiếc thuyền đang tiến vào bờ. Tất cả không gian như lặng tờ, nhìn qua mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó như một vẻ đẹp “toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phải chăng đó là cái nhức nhói trong sung sướng của một người nghệ sĩ khi gặp được cảnh tượng đầy đẹp đẽ và có sức hút như thế. Vậy nên Phùng là một người nghệ sĩ chân chính, là người dễ xúc động trước cái đẹp nên mới mang những xúc cảm như thế. Chỉ có người yêu nghệ thuật mới thấy cái Chân Thiện Mỹ trong cái đẹp. “Chẳng biết ai đó đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?”
Phùng còn là một người lính ghét áp bức bất công, sẵn sàng làm mọi thứ vì lẽ phải và công bằng. Là một nghệ sĩ anh ghét những cái xấu và lên án chúng. Và hơn thế, anh còn là người lính không sợ chết để chiến đấu vì Tổ quốc nên anh sao có thể đứng yên khi thấy cảnh lão đàn ông quật chiếc thắt lưng tới tấp vào lưng người đàn bà như thế. Anh là người nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ, anh với cái nhìn rung động, say mê trước cái đẹp nay lại bàng hoàng khi chứng kiến một cảnh bạo hành như thế. Anh cứ “đứng há mồm ra mà nhìn”. Rồi cũng chẳng biết khi nào, cái bản tính ghét cay ghét đắng cái xấu lại nổi lên trong Phùng, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Anh chẳng quan tâm đến thứ quý giá nhất của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh tức giận trước cái hành động bạo hành của lão đàn ông kia. Phùng vứt bỏ phương tiện nghệ thuật để cứu lấy người vô tội, để ngăn chặn cái ác đang diễn ra trước mắt. Dù rằng không nhanh bằng cách thằng bé Phác chạy đến cứu mẹ nó. Nhưng đó là hành động biểu hiện cho sự chọn lựa của người nghệ sĩ, đó là con người, và vì con người.
Lần thứ hai, “Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương”. “Anh không thể nén chịu hơn được nữa”, Phùng xông ra ngăn lão đàn ông, chấm dứt hành động độc ác của lão, và chính anh cũng bị thương. Phùng khi nghe người đàn bà từ chối việc ly hôn đã không kìm được bình tĩnh, đứng dậy vén màn và ngồi xuống trước mặt người đàn bà làng chài. Khi nghe lời giãi bày của một người học vấn không cao như người đàn bà làng chài đã làm cho người nghệ sĩ nhiếp ảnh phải suy nghĩ, phải nghiền ngẫm về cuộc đời và nghệ thuật.
Vốn dĩ nhìn đời bằng nghệ thuật và hết lòng vì cái đẹp, ngăn cản cái xấu diễn ra, Phùng nhận ra bi kịch của gia đình làng chài, gia đình của Phác. Cuộc đời nếu chỉ nhìn ở một góc độ thì liệu rằng ta có thể nhìn thấu cả nỗi khổ của người khác. Ví như cảnh mũi thuyền trong làn sương thật đẹp biết bao, nhưng trên chiếc thuyền ấy lại chở một tấn bi kịch mà nếu như Phùng không chứng kiến thì ấn tượng của anh vẫn mãi là một cảnh đẹp. Nếu anh không gặp người đàn bà làng chài thì anh đâu biết về lý do bà ta từ chối ly hôn với người chồng vũ phu. Một người ăn học ít như mụ cũng thấu tình đạt lý tới mức khiến Phùng suy nghĩ về cuộc đời và suy nghĩ về góc nhìn cuộc sống. “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”. “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. “Đàn bà ở thuyền chúng tôi không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Vậy đấy, cuộc đời lắm lý do khiến con người ta khổ. Mà nghệ thuật nếu chỉ xuất phát và tạo ra cái đẹp thì liệu có khiến người say mê nghệ thuật như Phùng hiểu đời hơn không?
Advertisement
Tóm lại, nhân vật Phùng là người chứng kiến toàn bộ quá trình của câu chuyện, là một người lính ghét cái xấu hoành hành, và là người nghệ sĩ trân trọng cái đẹp chân thiện mỹ. Phùng còn một nhân vật mang thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến độc giả. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước hết hãy là một nghệ sĩ biết rung động đối với những điều bình dị xuất phát từ những điều nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống để từ đó xây dựng những giá trị nghệ thuật làm con người trở nên tốt đẹp hơn. “Sống đã rồi hãy viết hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân” (Nam Cao).
Trong thể loại văn xuôi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều tác phẩm để đời. Với cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở miền núi, chúng ta có “Vợ chồng A Phủ”, hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử thi – “Rừng Xà nu”… Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay đổi, nước ta xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước chuyển mình. Đề tài thế sự và đạo đưc được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác. Và “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.
Được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất”( Nguyên Hồng), Nguyễn Minh Châu- cây bút tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những tác phẩm thành công của ông là “Chiếc thuyền ngoài xa”. Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến năm 1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này được coi là nhân vật thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.
Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật Phùng. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.
Trước hết, anh là người có tâm hồn nghệ sĩ.Sau mấy buổi sáng “phục kích”, anh đã chụp được “cảnh đắt trời cho”. Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như “bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc “bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào”. Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện – mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức “bản thân cái đẹp là đạo đức”. Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mĩ.
Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người tốt bụng, có lòng đồng cảm với mọi người, mang những đức tính của một người chiến sĩ. Điều này được thể hiện qua phát hiện thứ hai của anh. Từ chiếc thuyền đẹp như ngư phủ kia, bước ra một cặp vợ chồng: người đàn bà xấu xí mỏi mệt, người đàn ông thô kệch dữ dằn. Họ là những con người hiện thân cho sự lam lũ, nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Sẽ không có gì nếu cảnh tượng nghiệt ngã này không xảy ra trước mắt anh. Người chồng đánh đập vợ một cách dã man, vừa đánh vừa chửi “mày chết đi cho ông nhờ”, “chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ thì cam chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ, xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Mặc dù đã chứng kiến biết bao cảnh đau thương trên chiến trường nhưng anh vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự việc này. Nó hoàn toàn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Với anh- một người đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa. Anh luôn đứng về lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều xấu, điều ác.
Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được “cảnh đắt trời cho”, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.
Nhân vật Phùng là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm này của Nguyễn Minh Châu. Anh vừa là nhân vật tạo tình huống, vừa là nhân vật gắn kết các sự kiện chuyện với nhau, thể hiện thông điệp mà tác phẩm muốn gửi gắm. Là một người có tâm hồn chiến sĩ và nghệ sĩ, Phùng đã để lại nhiều ấn tượng tốt trong lòng người đọc.
………………
Cập nhật thông tin chi tiết về 10 Bài Phân Tích Phẩm Chất Anh Hùng Của Các Nhân Vật Trong “Rừng Xà Nu” Của Nguyễn Trung Thành trên website Mfua.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!